Additional Info
Ni Sư Pháp Tánh
(? - ?)
Ni sư Pháp Tánh tên thật là Trịnh Thị Ngọc Trúc, và biệt danh là “Bà Chúa Kim Cương”, con gái của Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1623 - 1657).
Trịnh Thị Ngọc Trúc được gả cho Cường Quận công Lê Vinh Tiến, chú họ của vua Lê Thần Tông; có được 4 con thì Lê Vinh Tiến bị bắt giam. Trong khi đó, Thanh Đô vương Trịnh Tráng lại bắt Trịnh Thị Ngọc Trúc gả cho vua Lê Thần Tông. Triều thần là Nguyễn Thục, Nguyễn Danh Thế nhiều lần dâng sớ can gián vua, vua không nghe và nói rằng: “Trót cho xong việc, gượng lấy vậy mà”.
Năm Canh Ngọ (1630), Trịnh Thị Ngọc Trúc trở thành chánh phi của vua Lê Thần Tông. Vua Lê Thần Tông làm vua từ năm 1619 đến năm 1643 thì nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (13 tuổi) tức vua Lê Chân Tông, lên làm Thái thượng hoàng.
Năm 1632, vua và Hoàng hậu Ngọc Trúc trùng tu chùa Thần Quang (chùa Keo).
Vua Lê Chân Tông ở ngôi được bảy năm (1643 - 1649) thì băng, không có con nối ngôi. Thượng Hoàng Lê Thần Tông lại làm vua lần nữa, từ năm 1649 đến năm Nhâm Dần (1662) thì băng.
Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc đã quy y thọ giáo với Thiền sư Minh Hành Tại Tại ở chùa Phật Tích, được ban pháp danh là Pháp Tánh. Có lẽ bà Trịnh Thị Ngọc Trúc xin xuất gia vào năm 1643, khi vua Lê Thần Tông nhường ngôi cho vua Lê Chân Tông lên làm Thái thượng hoàng; vì vào năm đó, bà Trịnh Thị Ngọc Trúc đã xin cha là chúa Trịnh Tráng cho trùng tu chùa Ninh Phúc (sau được gọi là chùa Bút Tháp hay chùa Nhạn Tháp). Sau khi chùa Ninh Phúc được trùng tu xong, Thiền sư Chuyết Chuyết Viên Văn được thỉnh qua trụ trì chùa đó. Ni cô Pháp Tánh vẫn tu ở chùa Phật Tích với thầy là Thiền sư Minh Hành.
Năm 1644, Hòa thượng Viên Văn Chuyết Chuyết viên tịch ở chùa Ninh Phúc, Thiền sư Minh Hành và đồ chúng lập tháp an trí nhục thân của Hòa thượng ở chùa Phật Tích. Sau đó, Thiền sư Tại Tại qua hoằng hóa ở chùa Ninh Phúc. Ni cô Pháp Tánh lại xin cha cho trùng tu chùa Ninh Phúc một lần nữa, đồng Thời xây tháp Báo Nghiêm để thờ Hòa thượng Viên Văn Chuyết Chuyết. Tháp Bảo Nghiêm với hình cây bút khổng lồ được hoàn thành vào năm 1647, từ đó dân chúng thời đó gọi chùa Ninh Phúc là chùa Bút Tháp.
Hiện chưa biết rõ Ni cô Pháp Tánh tịch vào năm nào? Có lẽ Ni cô Pháp Tánh mất vào khoảng năm 1644 - 1645 vì trong bia “Phụng lệnh chỉ” được khắc vào năm 1646 đã có ghi về việc cúng giỗ của Ni sư Pháp Tánh.
Trước đây có một số học giả tưởng lầm rằng Ni sư Pháp Tánh soạn sách “Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa”, đây là một bộ tự diển Hán - Việt xưa nhất và có giá trị kiến thức như một sách bách khoa tự điển. Nhưng thực ra, Sư Pháp Tánh viết sách này là một Thiền sư, không phải là Ni cô Pháp Tánh ở đây.
Trong sách này cho biết rằng: Thái thú Sĩ Nhiếp đã soạn ra sách “Chỉ Nam Phần Vựng” giải nghĩa chữ khó của chữ Việt ngày xưa ra chữ Hán. Nhưng sách này cũng còn khó hiểu nên Sư Pháp Tánh mới soạn lại sách “Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa”.
Như vậy, chữ Việt xưa đã có từ trước khi Thái thú Sĩ Nhiếp (187 - 226) cai trị Giao Chỉ.
Thiền sư Pháp Tánh viết sách “Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa” trụ trì chùa Hồng Phúc, là Thiền sư thuộc phái thiền Tào Động ở Đàng Ngoài.
|