Additional Info
道 信 (580-651), Taoshin (C), Dōshin (J), Daoxin (C). Tổ truyền pháp thứ ba mươi mốt của Thiền Tông Ấn Độ và là Tứ Tổ của Thiền tông Trung Hoa.
Sư là vị tổ thứ tư của Thiền Tông Trung Hoa, đệ tử đắc pháp của tổ thứ ba Tăng Xán (?-606), và là thầy của tổ thứ năm Hoằng Nhẫn (602-675).
Ngài họ Tư Mã, người Hà Nội, sau dời chỗ ở đến huyện Quảng Tế, Kỳ Châu, tỉnh Hồ Bắc. Lúc nhỏ ngài nhân hâm mộ Không tông và các pháp môn giải thoát, dường như vốn quen đã từng kế thừa Tổ phong rồi. Sư nhiếp tâm không để ngủ say, hông không bén chiếu gần 60 năm.
Theo quyển "Phật tổ Chánh Tông Đạo Ảnh", năm 14 tuổi ngài vào núi Hoãn Công ở Thư Châu (nay là thành phố An Khánh, tỉnh An Huy), đến lễ bái Tổ thứ ba và bạch rằng:
- Xin Hòa thượng mở pháp môn giải thoát.
- Có ai buộc trói ngươi sao?
- Không ai trói buộc tôi cả.
- Sao lại cầu giải thoát?
Nghe xong, Đạo Tín liền đại ngộ. Hầu cận tổ 9 năm thì được truyền y bát. Đắc Pháp rồi, ngài trụ tại núi Phá đầu và về sau viện tịch tại đó.
Niên hiệu Đại-Nghiệp thứ 13 (613 TL) đời Tùy, năm 38 tuổi ngài dẫn đồ chúng đến thành Lư Lăng (nay là huyện Cát An, tỉnh Giang Tây), gặp lúc thành này bị đạo tặc Tào-Võ-Vệ bao vây đến 7 tuần (một tuần ngày xưa ở Trung Quốc là 10 ngày), giếng, suối đều khô nước, dân chúng lo lắng sợ sệt. Sư xót thương dạy họ niệm Ma-ha Bát-nhã. Lúc đó chúng giặc ngó lên những bức tường thấp trên mặt thành thấy dường như có thần binh, bèn bảo nhau:
- Trong thành ắt có dị nhân, không nên công phá. Rồi từ từ họ rút lui.
Sau khi xong việc ở thành Cát Châu, Đạo Tín đi đến Nam Nhạc, qua ngang Giang Châu, vì tăng tục ở Giang Châu, ngài dừng chân tại chùa Đại Lâm thuộc núi Lô Sơn trải qua mười năm.
Tổ Tăng Xán yêu cầu Đạo Tín ở lại một viện Phật học trên núi Lư, thuyết giảng kinh Lăng Già, một văn bản có tầm quan trọng hàng đầu từ thời tổ Bồ Đề Đạt Ma và giảng dạy cách hành thiền ở đó. Sau một thời gian ở trên núi Lư, Đạo Tín nghe theo một điềm báo và chuyển sang núi bên cạnh mà đời sau biết đến với cái tên Song Đỉnh. Thiền sư Đạo Tín còn nổi tiếng vì đã cắt đứt với kiểu sống khất thực nay đây mai đó của những tăng sĩ Phật giáo sống vô gia cư, và thiết lập chế độ sinh hoạt và tu học định cư tại các Thiền viện. Ngài ra lệnh cho các môn đồ lập ra một cộng đồng tự cung tự cấp làm kiểu mẫu cho những cộng đồng thiền sau nầy.
Khác với các tổ Thiền đời trước vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Kinh điển, Đạo Tín đã cho thấy một xu hướng đặc trưng về Thiền. Một đoạn trong các trước tác, ngài đã viết: “Hãy ngồi thiền định với lòng hăng hái, vì Thiền là căn bản là nền tảng phát triển giác ngộ. Hãy đóng cửa lại và ngồi xuống! Đừng tiếp tục đọc kinh mà không chịu hành trì nữa”.
Trong ba mươi năm ở trên núi Song Đỉnh, Đạo Tín đã tập hợp được khoảng năm trăm môn đồ.
Năm Giáp Thân, niên hiệu Vũ Đức nhà Đường 624, Sư lại trở về Kì Xuân, lúc này ngài 45 tuổi trú ở núi Phá Đầu đến hơn 30 năm, ,học lữ đến đông đúc.
Một hôm Sư đến huyện Hồng Mai, gặp một chú bé ngồi đường, hình tướng rất đẹp khác với trẻ con bình thường. Sư hỏi:
- Ông họ gì?
Đáp:
- Họ thì có mà chẳng phải họ đời thường.
Sư hỏi:
- Là họ gì?
Đáp:
- Là tánh Phật.
Sư hỏi:
- Ông không có tánh chăng?
Đáp:
- Vì tánh rỗng không.
Sư mặc nhiên biết đây là pháp khí, liền sai thị giả đến nhà chú bé xin cha mẹ cho xuất gia. Vì có túc duyên nên cha mẹ đặc biệt thuận cho không hề do dự, rồi xuất gia làm đệ tử Sư với tên Hoằng Nhẫn cho đến trao pháp truyền y. Kệ rằng:
Hoa chủng hữu sanh tánh
Nhân địa hoa sanh sanh
Đại duyên dữ tín hợp
Đương sanh sanh bất sanh
Dịch:
Giống hoa có tánh sanh
Nhân đất hoa sanh sanh
Duyên lớn cùng tin hợp
Đương sanh, sanh bất sanh
Rồi đem học đồ ủy nhiệm cho Hoằng Nhẫn
Một hôm Sư bảo chúng:
- Trong đời Vũ Đức (618-626, Đường Cao Tổ), ta có viếng Lô Sơn, lên đỉnh cao trông về núi Phá Đầu, thấy vầng mây tía như cái lọng, dưới có vùng hơi trắng rẽ ngang thành sáu đường. Các ông biết điềm gì không?
Chúng đều yên lặng. Nhẫn thưa:
- Có lẽ sau này Hòa thượng sanh thêm một nhánh Phật pháp chăng?
Sư khen: ”Phải”
Một vị đệ tử khác của ngài là thiền sư Pháp Dung (594-657) ở núi Ngưu-đầu (Nam Kinh) biệt lập một phái thiền gọi là “Ngưu Đầu Thiền”.
Năm 64 tuổi , vào niên hiệu Trinh Quán (627-649, Đường Thái Tông) năm Quý Mão 643, vua Thái Tông hưởng ứng đạo vị của Sư, muốn chiêm ngưỡng phong thái, ban chiếu thỉnh Sư về Kinh sư. Sư dâng biểu trước sau ba lần khiêm tốn từ tạ, cuối cùng phải thác bệnh tật. Lần thứ tư vua sai sứ đi thỉnh, vua nói:
- Nếu như không nhận lời thì đem đầu Sư về.
Sứ giả đến núi trình Sư tờ chỉ dụ của vua, Sư liền đưa cổ ra chịu chém với thần sắc thản nhiên. Sứ rất ngạc nhiên trở về kinh, dâng trạng tấu trình vua, vua càng khen ngợi và mến mộ hơn, rồi ban cho lụa quí và để Sư toại nguyện chí mình.
Cuối đời, Tổ Đạo Tín yêu cầu Tổ Hoằng Nhẫn xây dựng một cái lăng trên sườn núi Song Đỉnh. Lăng xây xong, Đạo Tín vào ở đó và hóa trong khi chìm sâu vào thiền định. Đến đời Cao Tông, niên hiệu Vĩnh Huy (650-656), ngày mùng 4 tháng 9 năm nhuần tân hợi 651, Sư chợt rủ lòng từ bi răn dạy môn nhân:
- Tất cả pháp đều là pháp giải thốt, các ông mỗi người tự giữ gìn ghi nhớ, lưu hành giáo hóa hậu lai.
Nói xong Sư ngồi yên mà tịch, thọ 72 tuổi. Tháp xây tại núi nhà (Phá Đầu Sơn). Năm sau 652, ngày mùng 8 tháng 4 cửa tháp vô cớ tự mở, nghi tướng Sư như còn sống, sau đó môn nhân không dám đóng cửa tháp lại.
Vua Đường Đại Tông (763-779) ban Sư thụy hiệu Đại Y Thiền Sư, tháp hiệu Từ Vân.
Trước tác của ngài có Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Pháp Môn, Bồ Tát Giới Tác Pháp, v.v...
*
Theo Lịch Sử Thiền Tông Trung Quốc - Ấn Thuận
Đạo Tín “lấy pháp làm phương tiện nhập đạo”, tức lấy “Nhập đạo an tâm yếu phương tiện môn” dạy người.
Đạo Tín chọn tư tưởng Nhất Hạnh Tam Muội trong “Kinh Văn Thù Thuyết Bát Nhã”.
Sự lưu truyền “Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Môn” trong “Lăng Già Sư Tư Ký”, tiêu biểu cho phương pháp thiền của Đạo Tín, có thể nói đây là tư liệu quý giá, xác thực khó tìm thấy!
Đạo Tín đã kết hợp hành thiền và Bồ Tát Giới (Giới Bồ Tát rất thịnh hành vào thời Nam Triều – Lương Võ Đế và Tùy Dạng Đế - lúc còn là Tần Vương- đều thọ giới Bồ Tát).
Lúc Đạo Tín đến phương nam tu học, chịu ảnh hưởng tư tưởng bát-nhã ở phương nam. Khi ở Cát Châu dạy mọi người hành trì “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật”.
Mãi đến khi khai pháp tại núi Song Phong, mới đem Chư Phật Tâm Đệ Nhất trong “Kinh Lăng Già” và Nhất Hạnh Tam Muội trong “Kinh Văn Thù Thuyết Bát Nhã” dung hợp lại, hình thành Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Môn. Từ đó thiền pháp thống nhất tư tưởng giữa ‘Lăng Già’ và ‘Bát Nhã’.
Kệ truyền pháp:
Hoa chủng hữu sanh tánh
Nhơn địa hoa sanh sanh
Đại duyên dữ tín hiệp
Đương sanh sanh bất sanh
Dịch:
Giống hoa có tánh sống
Nhơn đất hoa nảy mầm
Duyên lớn cùng tín hợp
Chính sanh, sanh chẳng sanh
|