Tướng Quốc Bùi Hưu

Personal Information

Danh Tánh
Tướng Quốc Bùi Hưu
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Cư Sĩ Tể Tướng Bùi Hưu
Pháp tự đời thứ tư của Nam Nhạc Hoài Nhượng
Pháp tự của Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vận ở núi Huỳnh Nghiệt, Hồng Châu
A - Tiểu sử tối lược giản:
Bùi Hưu tự là Công Mỹ, người Văn Hỷ Hà Đông (nay nằm trong tỉnh Sơn Tây). Một thuyết khác nói là Tể Nguyên (nay nằm trong tỉnh Hà Nam). Công là đại thần nhà Đường trong thế kỷ thứ 9 từng giữ chức binh bộ thị lang, và Trung thư môn hạ Bình chương sự (tức Tể tướng), đồng thời cũng là Tiết độ sứ nhiều địa phương.
Công tâm thành tín tưởng đạo Phật, đắc pháp với Thiền sư Hoàng Bá và ghi chép nhiều pháp ngữ của thầy tập hợp thành ‘Uyển Lăng tập’ lưu truyền trong đời.
Công lại quan hệ mật thiết với Thiền sư Khuê Phong Tông Mật. Các tác phẩm của Tông Mật đều do Công đề tựa. Sau thời kỳ Đường Vũ Tông diệt Phật, với cương vị tể tướng trọng thần, Công đã tận lực ủng hộ, có nhiều cống hiến đối với Phật giáo.
B - Trích ngữ lục:
Khi Bùi Hưu giữ chức Tiết độ sứ ở Tân An, nhằm lúc Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận rời chúng tăng ở núi Hoàng Bá đến tinh xá Đại An hỗn nhập cùng các tăng nhân tạp dịch, quét tước điện đường. Bùi công vào chùa niệm hương, chủ sự tăng cung kính tiếp đãi. Trong lúc thưởng lãm các bức họa trên tường, Công hỏi:
- Đây là những bức họa gì?
Chủ sự đáp:
- Đây là chân dung của các cao tăng.
Công hỏi:
- Chân dung thì có thể thưởng lãm, nhưng cao tăng thì ở đâu?
Chúng tăng đều không thể đối đáp được. Công lại hỏi:
- Trong chùa này có Thiền giả không?
Chúng tăng đáp:
- Gần đây có một tăng nhân đến chùa làm lao dịch, có vẻ là Thiền giả.
Công hỏi:
- Mời đến hỏi han được không?
Thế là chúng tăng tức khắc cho tìm Hoàng Bá đến. Bùi công nhìn Hoàng Bá rất thích ý nói:
- Vừa rồi bản chức có một số vấn đề hỏi han mà tăng chúng tiếc sẻn lời, mời thượng nhân giải đáp thay cho.
Thiền sư nói:
- Xin mời tướng công cứ hỏi !
Bùi công bèn đem tình hình hỏi han lúc nãy lập lại. Hoàng Bá bỗng gọi:
- Bùi Hưu !
Bùi công ứng đáp. Hoàng Bá hỏi:
- Ở nơi đâu?
Ngay đó Bùi công liền hiểu chỉ ý, như bắt được kết châu trên mão Chuyển Luân Thánh Vương nói:
- Lão sư của ta đúng là cao tăng, chỉ dạy người thật chính xác sao lại mai một đạm bạc tại nơi này?
Lúc đó chúng tăng đều ngạc nhiên.
Từ đó mời Hoàng Bá vào phủ thự, giữ lại cúng dường, chấp lễ đệ tử. Bá luôn giã từ mà không được. Lại kiên thỉnh trụ núi Hoàng Bá cho được để hưng thịnh Tổ giáo. Hễ có chút thì giờ rảnh rỗi Công luôn đích thân vào núi thưa thỉnh. Hoặc bận bịu mà thèm nghe huyền luận quá thì thỉnh mời Thiền sư vào phủ châu.

*

Ngày nọ, ông trình lên Hoàng Bá một bản thủ bút ghi lại chỗ thấy của ông về đạo Thiền. Hoàng Bá cầm lấy, để trước mặt, không liếc qua, im lặng giây lâu rồi hốt nhiên hỏi:
- Ông hiểu không?
Bùi Hưu nói:
- Không hiểu.
Hoàng Bá nói:
- Nếu có hiểu là có Thiền. Còn bằng vào giấy trắng mực đen thì tông môn tôi không có ở đó.

*

Công đã thông triệt Tổ tâm lại hiểu rộng Giáo tướng. Chư phương Thiền học đều cho tướng quốc Bùi Hưu không uổng công xuất thân dưới cửa Hoàng Bá.
Cho đến khi thuyên chuyển đến trấn nhậm Tuyên Thành, vẫn nghĩ đến chuyện chiêm lễ, bèn cất già lam nghinh đón Hoàng Bá đến ở.
Tuy Thiền sư Khuê Phong Tông Mật là người giảng Thiền cực giỏi, được Công rất coi trọng, nhưng cũng chưa qui tâm, khuynh kiệt phục ưng như đối với Hoàng Bá.
Công lại soạn văn bia Khuê Phong, trong có câu: ‘Hưu và sư là anh em trong pháp, trong nghĩa là bạn kết tâm giao, nơi ơn đức là thiện tri thức, trong Giáo là nội ngoại hộ, điều đó có thể thấy vậy’.
Công trưng tập ngữ yếu của Hoàng Bá thành ‘Hoàng Bá Truyền Tâm Pháp Yếu’, đích thân đề tựa dẫn quan ở đầu biên, giữ lại trấn sơn môn. Lại đích thân chép Đại Tạng Kinh năm trăm hàm hiệu, đến nay vẫn còn bảo tồn như vật báu. Lại Thiền sư Khoa Phong trước tác ‘Thiền Nguyên Chư Thuyên Nguyên Nhân Luận’ và ‘Viên Giác Kinh Sớ Chú Pháp Giới Quan’ đều được Công đề tựa.
Cha của Công tên Túc, tự Trung Minh, giữ chức Quán Sát sứ ở Việt Châu, đáp ứng lời sấm ký 300 năm trước, cất lại điện Đại Phật chùa Hưng Long, tự soạn bia minh. Nguyên trước kia sa-môn Đàm Ngạn ở Việt Châu, thân cao 5 thước (Tàu), lông mày thòng mấy tấc (Tàu) cùng với đàn việt Hứa Tuân tự Huyền Độ cùng xây cất hai tháp lớn, một bằng gạch, một bằng cây. Tháp chưa xong thì Tuân mất. Ngạn sư trường thọ đến 120 tuổi, vẫn đợi đến lúc hậu thân của Tuân là Nhạc Dương Vương đến trấn nhậm Việt Châu. Ấy là nguyện lực vậy. Ngạn sư cáo với môn nhân rằng:
- Hứa Huyền Độ đến rồi !
Đệ tử đều cho sư phụ già cả nói năng không chính xác. Hứa huyền Độ chết đã hơn 30 năm, sao lại nói đến rồi. Lúc đó Nhạc Dương Vương tuân theo lời mật thị của Chí Công, nên vừa đến châu trấn nhậm liền vào chùa tìm hỏi. Ngạn sư ra đón tại cổng chùa, từ xa nhìn thấy bèn gọi:
- Hứa huyền Độ sao tới muộn thế? Tháp xưa nay vẫn còn đó.
Nhạc Dương vương nói:
- Đệ tử họ Tiêu, tên Sát, sao sư gọi là Hứa Huyền Độ?
Ngạn nói:
- Chưa đạt túc mệnh, làm sao biết được.
Liền nắm tay bảo đi vào thất ngồi xuống đất. Ngạn dùng sức Tam muội gia bị khiến Vương bỗng ngộ chuyện tiền thân xây tháp, rõ mồn một như hiện tại. Do đó hai tháp càng thêm tráng lệ.
Lúc ấy đại điện chùa Long Hưng sụp đổ, đại chúng thỉnh Ngạn sư trùng tu. Ngạn nói:
- Không phải duyên lực của bần đạo. Đợi 200 năm nữa chủ công đức mặc áo lụa sang trọng tới trùng hưng điện này, làm Phật sự lớn.
Chúng trong chùa khắc lời huyền ký vào đá. Đúng kỳ, thái thú Bùi Túc đến trấn nhậm Việt Châu, hưng long Tam Bảo, dốc hết bổng lộc, trùng tu đại điện, mới biết lời huyền ký của Ngạn sư là không ngoa vậy.
Bùi Công Túc nhân đó dốc chí nội điển, thâm nhập pháp hội, có bài văn ‘Phát Nguyện’ truyền trong đời.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.