Năm 1960

Năm 1960 (Canh Tý – PL.2504)

– Ngày 08 tháng Giêng năm Canh Tý, Hòa thượng Chơn Phụng – Thiện Tánh (1896-1960), thế danh Nguyễn Văn Mi, húy Chơn Phụng, sinh  tại làng Phú Hòa, Thủ Dầu Một, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, trụ trì chùa An Lạc (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch, thọ 65 tuổi.

– Ngày 19 tháng Giêng năm Canh Tý, Hòa thượng Quảng Đống – Thiện Hồng (1891-1960), húy Quảng Đống, sinh tại làng Chánh Hiệp, Thủ Dầu Một, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 45, trụ trì chùa Đức Sơn (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch, thọ 70 tuổi.

– Ngày 07 tháng 2 năm Canh Tý, Lễ khánh thành chùa Thới Bình nay tại ấp Phước Thới, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.

– Ngày 11 tháng 4, Hòa thượng Chơn Miên – Trí Hưng (1908-1986) tổ chức khánh thành chùa Sắc tứ Từ Lâm (Quảng Ngãi).

– Ngày 16 tháng 8 năm Canh Tý, Hòa thượng Nhựt Đổng – Thiện Phát (1887-1960), thế danh Lê Công Sơn, húy Nhựt Đổng, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 41, Tổ khai sáng chùa Hưng Long (Cần Đước, Long An), viên tịch, thọ 64 tuổi.

– Thượng tọa Tâm Hoàn – Huệ Long (1924-1981) được cử giữ chức Phó Đốc giáo Phật học viện Nguyên Thiều ở Bình Định.

– Hòa thượng Nhuận Huê – Thiện Hương (1903-1971) được Hội đồng Trưởng lão Giáo hội suy cử ngôi vị Đệ nhất Phó Tăng giám Trung Ương Giáo hội Lục hòa Tăng.

– Đại đức Thích Thiên Ân (1925-1980) du học ở Nhật Bản, đậu Tiến sĩ Văn Chương, sau đó trở về nước. Ngài được thỉnh giảng ở các trường đại học.

– Hòa thượng Nguyên Hương – Tường Vân (1899-1983) cùng với chư Hòa thượng : Phước Nhàn, Phước Như, Vĩnh Thọ tạo lập T ng Lâm Vạn Thiện (Phan Thiết) để làm cơ sở tu học cho chư tăng. Hòa thượng Tường Vân được chư sơn cử giữ chức Đệ nhất trụ trì Tòng Lâm này.

– Hòa thượng Trừng Châu – Huyền Quý (1897-1999) được cung thỉnh làm trụ trì chùa Thái Bình, Gò Công.

– Đại đức Thích Thiện Tín (1921-1999) trùng tu chùa Hội Phước ở Tân Thạch, Bến Tre.

– Thượng tọa Tăng Đức Bổn (1917-2000) hợp cùng Hòa thượng Diệu Hoa kiến tạo chùa Vạn Phật tại An Đông – Chợ Lớn để hoằng hóa đạo pháp vùng này.

– Hòa thượng Đồng Kỉnh – Tín Quả (1891-1978) khai sơn chùa Long Hoa ở Vạn Thắng (Vạn Ninh).

– Thượng tọa Tâm Như – Trí Thủ (1909-1984) được Ban Quản Trị ủy thác cho ngài vào Sài Gòn mua một sở đất tại xã Hạnh Thông, quận Gò Vấp, xây dựng tu viện Quảng Hương Già Lam.

– Thượng tọa Tâm Như – Mật Nguyện (1911-1972) đại trùng tu chùa Linh Quang ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.

– Phật giáo Thừa Thiên dựng bia tháp của Đại sư Quảng Tuyên, thuộc thiền phái Lâm Tế, trụ trì chùa Bảo Sơn (hay Kim Sơn), trên đồi Lưu Bảo, nay thuộc xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

– Hòa thượng Tâm Lai – Phước Hậu, thuộc dòng thiền Tế thượng Chánh tông, đời thứ 43, khai sơn chùa Thiên Linh nay ở số 279/22D, đường Bình Tiên, phường 8, quận 6, TP. HCM.

– Thiền sư Như Vạn – Trí Phước (1930-1980) kế thế trụ trì Tổ đình Phước Lâm ở Hội An, Quảng Nam.

– Thiền sư Như Nhàn – Trí Giác (1915-2005) kế thế trụ trì Tổ đình Tam Thai núi Ngũ Hành, huyện Hòa Vang, Quảng Nam.

– Đại đức Diệu Hòa – Phước Tạng (1923-1997) kế thế trụ trì Tổ đình Quang Lộc ở thôn Phước Long, xã Tư H a, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

– Thượng tọa Chơn Sử – Khánh Tín (1896-1992) được GHTG tỉnh Quảng Ngãi cung thỉnh làm Chứng minh Đạo sư của Hội.

– Ni sư Như Huyền – Hồng Từ (1917-1987) khai sơn chùa Tịnh Nghiêm ở phủ Tư Nghĩa, Quảng Ngãi.

– Ni trưởng Thị Hương – Diệu Hoa (1925-1995) trùng tu chùa Long Quang nay tại xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

– Đại đức Hạnh Phát – Phước Huệ (1929-1989) được cử làm Chánh hội trưởng Chi hội Phật giáo Vạn Ninh (1960-1962).

– Thiền sư Hành Pháp – Quảng Đức (1897-1963) đại trùng tu chùa Quán Thế Âm nay thuộc quận Phú Nhuận, Tp. HCM.

– Đại đức Như Thiện – Hoàn Quan (1928-2005) được mời làm Đốc giáo trường Phật học Phước Hòa tại Trà Vinh.

– Ni sư Đồng Chánh – Tịnh Như (1923-1986) khai sơn Linh Thứu Ni viện tại Mỹ Tho (1960-1962).

– Thượng tọa Chơn Trung – Minh Đức (1902-1985) được Tổng hội Phật giáo Trung Phần bổ nhiệm trụ trì chùa Linh Phước (Đà Lạt).

Thiền sư Thích Thanh Từ (1924-?) được cử giữ chức Vụ trưởng Phật học vụ thuộc Ban Hoằng pháp GHTGNV. Cuối năm này, Thiền sư về an trú tại Thiền Duyệt Thất gần Phương Bối Am của Thiền sư Nhất Hạnh, thuộc Buôn B” su Danglu, nay là Đại Lào, Bảo Lộc, Lâm Đồng.

– Ni sư Hồng Ẩn – Như Thanh (1911-1999) khởi công xây dựng chùa Phổ Đà (Vũng Tàu).

– Ni sư Trừng Thành – Hướng Đạo (1905-1974) trụ trì chùa Diệu Viên (Huế), thành lập Dưỡng Lão đường để giúp các cụ già neo đơn an dưỡng và tu niệm (HTCNVN).

– Sư cô Tâm Ngọc – Thể Thanh (1923-1988) được mời làm Giáo thọ của các Ni viện Diệu Đức, Diệu Viên (Huế), Diệu Quang (Nha Trang) và Phổ Hiền (Cam Ranh) (từ năm 1960 – 1970).

– Ni sư Trừng Hảo – Diệu Không (1905-1997) tổ chức một lớp học ngắn hạn cho Ni chúng tại Qui Nhơn và thỉnh Hòa thượng Như An – Huyền Quang đến giảng dạy cách thức làm trụ trì và giảng sư Ni.

– Đại đức Tâm Trì – Viên Mãn (1922-2001) lập thảo am (sau này là chùa Kỳ Viên) tại thôn An Thổ, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, để tu hành.

– Chư vị Trưởng lão Hòa thượng : Trừng Phong – Phước Nhàn, Phước Như, Vĩnh Thọ, Nguyên Hương – Tường Vân, Ấn Tâm chứng minh khai sơn T ng Lâm Vạn Thiện tự nay thuộc phường Phú Thủy, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

– Ni sư Nhựt Trinh – Liễu Tánh (1916-1982) được suy cử làm Trưởng ban Hoằng pháp của Ni bộ Nam Việt.

– Hòa thượng Thị Bình – Diệu Khai (1908-1981) trùng tu thượng điện chùa Viên Thông dưới chân núi Ngự Bình, huyện Hương Thủy – tỉnh Thừa Thiên Huế. Hòa thượng tiếp tục trùng tu : dãy nhà Tây (1964),  dãy nhà Đông (1972), nhà hậu (1986).

– Thượng tọa Nguyên Tuyết – Như Ý (1908-1985) trùng tu chùa Tra Am ở Thuận Hóa – Huế, xây dựng lại chánh điện nguy nga.

– Thượng tọa Nguyên Minh – Đức Thiệu (1911-1993) được GHPG Trung Phần bổ nhiệm trụ trì kiêm Hoằng pháp tại chùa Tỉnh hội Phật giáo Phan Thiết.

Thượng tọa Hương Sơn – Trí Hữu (1913-1975) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn chùa Linh Ứng, núi Non Nước, quận Ngũ Hành Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Thượng tọa Tâm Trí – Viên Giác (1912-1976) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn chùa Giác Hải tại Vạn Giã, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

– Đại đức Trí Thắng – Đồng Huy (1919-2010) được Hòa thượng Tâm Lợi – Thiện Hòa cử về trụ trì chùa Đại Tòng Lâm (Bà Rịa – Vũng Tàu) để lo khai khẩn và kiến thiết (1960-1963).

– Ni sư Quảng Định – Như Lý (1930-2008) và đệ tử là Sư cô Như Vân được mời về hộ trì Tam Bảo chùa Long Hoa nay tọa lạc ấp Cầu Tràm, xã Long Trạch, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

– Thượng tọa Nhựt Long – Thiện Căn (1902-2004) khai sơn chùa Hòa Bình, hiện tọa lạc tại khu phố 3, thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, trên khu đất rộng 625m2.

– Đại đức Nhựt Thừa – Thiện Thanh (1918-1996) khai sơn chùa Thiền Quang hiện tại số 123, ấp Phụng Thớt, xã Nhơn Ninh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An, trên khu đất của gia đình hiến cúng.

– Đại đức Hồng Lương – Tâm Hồng (1914-1976) khai sáng chùa Tân Long nay tại ấp 2, xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, trên khu đất gia đình hiến cúng.

– Sư cô Nhật Hóa – Diệu Giáo (1924-2007) thành lập chùa Đức Quang nay tại số 403, ấp Bình Hữu 2, xã Đức Hòa thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, trên khu đất gia đình hiến cúng.

– Đại đức Nhuận Cần – Thiện Phú (1921-1977) kế thế trụ trì chùa Đức Sơn tại làng Hiệp Thành, Thủ Dầu Một (Bình Dương).

– Đại đức Đồng Nghĩa – Thiện Hoài (1921-1990) kế thế trụ trì chùa An Lạc (chùa Mục Đồng) nay tại xã Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

– Đại đức Nguyên Trí – Tịnh Trí, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 44, kế thế trụ trì chùa Phước Lâm nay tại xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (1960-1968).

– Hòa thượng Quảng Cẩn – Hoằng Văn (1892-1960), thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 45, trụ trì chùa Khánh Quới (Cai Lậy, Tiền Giang), viên tịch, thọ 69 tuổi.

– Thượng tọa Thanh Đàm – Trí Dũng (1906-2001) hưng công xây dựng chùa Phổ Minh nay tại quận Gò Vấp, Tp. HCM.

– Thượng tọa Tâm Diệp – Phước Quang trùng tu chùa Phụng Sơn ở Gia Định nay tại số 1408, đường 3/2, phường 2, quận 11, Tp. HCM.

– Hòa thượng Diệu Nguyên người Trung Hoa, sáng lập Thảo Đường Thiền tự hiện tại số 335/42, đường Hùng Vương, quận 6, Tp. HCM.

– Đại đức Nhật Thọ – Thiện Phước (1917-1994) được GHTGNV bổ nhiệm trụ trì chùa Xá Lợi hiện tại số 89, đường Bà Huyện Thanh Quan, quận 3, Tp. HCM (Nội san  Xuân Thế Kỷ, Lớp Cao đẳng Phật học Chuyên khoa tỉnh Cần Thơ Khóa I, 1998-2001).

– Chùa Huê Nghiêm hiện ở số 20/8, đường Đặng Văn Bi, thị trấn Thủ Đức, Tp. HCM, được Hòa thượng Lệ Phương – Thiện Bửu trùng tu. Chùa này tiếp tục trùng tu vào những năm : 1969, 1990.

– Thượng tọa Tâm Lợi – Thiện Hòa (1907-1978) sáng lập Phật học viện Giác Sanh, đặt tại chùa Giác Sanh, Phú Thọ (nay ở số 103, đường Âu Cơ, phường 14, quận 11, Tp. HCM). Cũng năm này, Thượng tọa Lệ Quang – Thiện Thành (1903-1986) được GHTGNV bổ nhiệm trụ trì chùa Giác Sanh.

– Thượng tọa Huệ Hải sáng lập chùa Từ Quang hiện tại số 68/5, đường Xuân Hiệp, khu phố 1, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Tp. HCM.

– Đại đức Hồng Trung – Huệ Hải (1919-2008) khai sáng chùa Từ Quang hiện tại số 68/5, đường Xuân Hiệp, khu phố 1, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Tp. HCM, do Phật tử Hà Vi Hưng – Minh Đức, Ôn Thị Đệ – Diệu Hạnh hiến cúng đất. Đến năm 1966, chùa xây dựng hoàn tất, tổ chức lễ khánh thành trọng thể.

– Đại đức Trí Hải – Quảng Liên (1925-2009) trình luận án Tốt nghiệp chuyên ngành nghiên cứu về vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa,…Đông Nam Á, và được công nhận học vị Tiến sĩ (phatgiaophuyen.com).

– Thượng tọa Hồng Tín – Huệ Thành (1912-2001) được Chư sơn thiền đức suy cử làm Tăng giám TƯ GHPG Lục hòa Tăng Việt Nam.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.