Năm 1350, (đời vua Trần Dụ Tông) sư Tuệ Tĩnh thọ đại giới tại chùa Vân Yên, núi Yên Tử với quốc sư Lãm Sơn. Tuệ Tĩnh (1330 – 1399) được suy tôn là ông tổ thuốc Nam.
Ông sanh năm 1330 tại Hải Dương, cha mẹ mất sớm, làm con nuôi sư trú trì chùa Hải Triều ở làng Giao Thủy (Nam Định) từ nhỏ. Sau khi làng Giao Thủy bị dịch tả, sư Tuệ Tĩnh chuyên tâm nghiên cứu dược tính từng cây thuốc Nam, đồng thời nghiên cứu theo các bệnh chứng để tìm nguyên nhân gây bệnh và chọn phương thuốc trị liệu. Ông chủ trương người Nam dùng thuốc Nam để trị bệnh, không lệ thuộc vào thuốc Bắc nhập cảng từ Trung Quốc. Thầy thuốc hay không phải chỉ biết công dụng của cây thuốc, đoán trúng bệnh mà còn phải linh hoạt gia giảm từng phương thuốc cho từng loại bệnh. Công trình nghiên cứu của ông được đúc kết thành bộ sách Nam Dược Thần Hiệu. Ông còn diễn tả dược tính của vị thuốc Nam bằng thơ Đường và một bài phú chữ Nôm về cách dùng 630 vị thuốc Nam.
Năm 1374, sư thi đậu Tiến Sĩ, được cử làm trú trì chùa Hải Triều (chùa Hộ Xá). Tại đây sư mở trường đào tạo lương y cho cả tăng lẫn tục. Sư biên soạn Hồng Nghĩa Giác Tự Y Thư làm sách cẩm nang trị liệu cho mỗi chùa. Một phần sách này viết bằng thơ Nôm lục bát. Danh tiếng của sư vang tận Trung Quốc nên năm 1384 (Giáp Tí) vua nhà Minh đòi đích danh nhà Trần phải triều cống sư. Vì sự nhu nhược của các vua cuối đời Trần, sư Tuệ Tĩnh (cùng nhiều danh tài các ngành khác) phải lên đường qua Kim Lăng, kinh đô nhà Minh. Sư chữa bệnh cho hoàng hậu và các hoàng thân quốc thích nhà Minh cho tới khi tịch vào năm 1399 tại Kim Lăng. Tại đền Xưa, đền Bia, chùa Giám ở Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương còn di tích của ông. Hàng năm vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, chùa Giám mở hội tế lễ ông. Sách Nam Dược Thần Hiệu được Lê Mạnh Thát dịch và giới thiệu trong bộ Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam (lần lượt được Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam xuất bản từng tập từ năm 2001). Sư Tuệ Tĩnh còn dịch tác phẩm thiền Khóa Hư Lục của vua Trần Thái Tông ra chữ Nôm, dưới tên Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục.
Nền y tế công cộng tại nước ta ít nhất đã có từ đầu thế kỷ 14 và tiếp tục phát triển dưới thời Hồ Quý Ly. Theo văn bia của vua Trần Minh Tông (1314 – 1329) khắc tại chùa Non Nước, Ninh Bình, chùa này đã là nơi trồng cây thuốc và mở y viện chữa bệnh cho dân. Dưới thời vua Trần Hiến Tông (1329 – 1341), thuốc Hồng Sương Ngọc Hoàn trị bá bệnh được cấp phát cho dân chúng.
Năm 1403, nhà Hồ cho xây Quảng Tế Thự ,một loại bệnh viện trung ương, danh y châm cứu Nguyễn Đại Năng được giao cai quản cơ sở này với chức vụ Quảng Tế Tự Thừa. Ông soạn sách Châm Cứu Tiếp Hiệu Diễn Ca ghi cách chữa 130 bệnh dùng 140 huyệt châm cứu, trong đó có 11 huyệt do người nước Nam tìm ra.
Các nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp và sau này Nguyễn Lang, Lê Mạnh Thát cho rằng sư Tuệ Tĩnh sống vào thế kỷ 17. Lê Mạnh Thát (TTTNT tr. 347) ghi Chân An Tuệ Tĩnh tịch vào năm 1711. Chúng tôi dựa vào tài liệu của Tuệ Tĩnh Đường ( một hệ thống phòng mạch thuốc Nam hiện nay tại VN) vì sự kiện các nhân tài nước Nam bị đem cống hiến Trung Quốc xảy ra vào cuối đời nhà Trần.