Năm 1666

Tổ sư Nguyên Thiều, húy Siêu Bạch, hiệu Hoán Bích hay Thọ Tông, họ Tạ, quê ở huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), sinh vào ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (1648), thuộc phái Thiền Lâm Tế, thế hệ 33.

Năm 1666, xuất gia thọ giới với Hòa thượng Bổn Quả-Khoáng Viên ở chùa Báo Tư (Trung Quốc). Năm Đinh Tỵ (1677), Tổ sư Nguyên Thiều rời Trung Quốc đi theo thuyền buôn sang Qui Nhơn (tỉnh Bình Định), lập chùa Thập Tháp Di Đà. Năm 1682, Thiền sư Hương Hải dẫn theo năm chục đệ tử của phái Thiền Trúc Lâm bỏ Đàng Trong ra Đàng Ngoài. Ở Thuận Hóa thiếu Tăng sĩ, nên chúa Nguyễn Phước Tần phải mời Tổ sư Nguyên Thiều từ Qui Nhơn ra Thuận Hóa hoằng truyền Phật pháp, Tổ lập chùa Hà Trung ở gần cửa biển Tư Dung và chùa Quốc Ân ở Phú Xuân (Huế). Đến khoảng năm 1687-1690, chúa Nguyễn Phước Trăn nhờ Tổ sư Nguyên Thiều trở về Trung Quốc thỉnh thêm Tăng sĩ, kinh sách PG, Phật tượng, pháp khí sang Đàng Trong. Tổ hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp. Chúa hỗ trợ cho Tổ khai Đại giới đàn ở chùa Thiên Mụ. Các Thiền sư thuộc phái Thiền Trúc Lâm, một số Thiền sư từ Trung Quốc sang, các Tăng sĩ trẻ ở Đàng Trong tham dự đông đủ. Vì lý do trên, và từ sau Đại giới đàn đó ở chùa Thiên Mụ, các Thiền sư hoằng hóa ở Đàng Trong thời đó, hầu hết đều thuộc truyền thừa của Tổ sư Nguyên Thiều, hoặc thuộc phái Thiền Lâm Tế và còn tiếp tục truyền thừa cho tới thời hiện đại.

Tổ sư Nguyên Thiều cùng các đệ tử hoằng hóa ở các chùa Kim Cang, Đại Giác, Long Thiền (Đồng Nai), chùa núi Châu Thới (Bình Dương)… hoàn thành tốt đẹp các Phật sự trên, nên tín đồ càng đông, PG phát triển rộng xuống đến Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh).

Ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728), Tổ sư Nguyên Thiều se mình, cho triệu tập môn đồ tứ chúng, giảng dạy huyền cơ, di chúc mật ngữ. Tổ sư bảo lấy bút viết bài kệ :

Tịch tịch cảnh vô ảnh

Minh minh châu bất dung

Đường đường vật phi vật

Liêu liêu không vật không.

Tạm dịch :

Lẳng lặng gương không ảnh

Sáng sáng ngọc không hình

Rõ ràng vật không vật

Vắng lặng không chẳng không.

Viết xong, Tổ sư ngồi thiền định mà viên tịch, thọ 81 tuổi. Đồ chúng lập tháp thờ ở sân trước, phía trái chùa Kim Cang ở Đồng Nai.

Nhân lễ Phật Đản năm 1729, đệ tử của Tổ sư Nguyên Thiều ở Phú Xuân xin với chúa Nguyễn Phước Trú, chúa ban cho bài ký minh: “Sắc tứ Hà Trung tự, Hoán Bích Thiền sư tháp ký minh”  [i], khắc trên bia trước tháp vọng của Tổ ở Phú Xuân (tháp ở gần chùa Trúc Lâm, thành phố Huế).

[i] . Tài liệu cũ cho rằng bài ký minh này là của chúa Nguyễn Phước Châu là không đúng. Bài này được ban vào năm Bảo Thái thứ 10, tức năm 1729, là của chúa Nguyễn Phước Trú.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.