Năm 1708, sau 6 năm tham cứu công án “muôn pháp về một, một về chỗ nào?” tổ Liễu Quán trình bày công phu đốn ngộ của mình với thầy là thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn Tôn ở núi Long Sơn, Thuận Hóa.
Thiền sư Liễu Quán (1670 – 1742) được coi là người lãnh đạo công cuộc phục hưng Phật giáo ở Đàng Trong vào đầu thế kỷ 18. Ông xuất gia năm 12 tuổi tại chùa Hội Tôn, Phú Yên với thiền sư Tế Viên. Ông học Hán tự và kinh luật dễ dàng, được thầy thương yêu. Bảy năm sau, thầy mất. Tang lễ thầy xong, ông để chùa lại cho các sư huynh trông coi, lên đường vào Thuận Hóa cầu học với thiền sư Giác Phong năm 1690. Một năm sau, nghe tin cha bị bệnh, ông xin trở về chăm lo. Trong 4 năm trời, ông lên rừng đốn củi đổi gạo nuôi cha. Bốn năm sau, cha từ trần. Tang lễ xong, ông lại lên đường học đạo. Lúc đó sư Thạch Liêm tổ chức đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm, ông tới xin thọ giới sa di. Hai năm sau (1697) ông thọ giới tỳ kheo tại giới đàn của thiền sư Từ Lâm. Năm 1699, ông lại lên đường cầu học khắp các tổ đình. Năm 1702, ông gặp thiền sư Tử Dung, nhận công án “muôn pháp về một, một về chỗ nào?”.
Sau khi ngộ được công án trên, thiền sư Liễu Quán hành đạo tại nhiều đạo tràng từ Huế tới Phú Yên, như chùa Thiền Tông, chùa Viên Thông ở Thuận Hóa, chùa Hội Tông, Cổ Lâm, Bảo Tịnh ở Phú Yên, hóa độ từ vua quan tới thứ dân.
Chùa Viên Thông do thiền sư Liễu Quán dựng ở chân núi Ngự Bình. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính hạnh của ông, nhiều lần triệu thỉnh nhưng ông một mực từ chối. Vì vậy chúa thường tới chùa Viên Thông để thăm ông và hỏi đạo. Núi Ngự Bình do đấy được gọi là núi Ngự. Ông được thỉnh làm chủ tọa 4 giới đàn lớn ở kinh đô năm 1733 – 1735 có nhiều cao tăng và quan lại tham dự. Năm 1740 ông chủ tọa giới đàn Long Hoa. Năm 1742 vài tháng trước khi tịch, ông còn được thỉnh làm Hòa Thượng Đường Đầu giới đàn chùa Viên Thông. Đệ tử thọ giới với ông xuất gia và tại gia gần 4 ngàn người.
Ông thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế, đã làm cho thiền phái này mang màu sắc dân tộc ở Đàng Trong, trút bỏ dần màu sắc Trung Quốc (Quảng Đông) trong lễ nhạc. Không những thế, ông còn là thiền sư đầu tiên ở Đàng Trong đưa ra bài kệ truyền phái (Thật Tế Đại Đạo,Tánh Hải Thanh Trừng,Tâm Nguyên Quảng Nhuận) cho thiền phái của ông. Bốn đại đệ tử của ông là các thiền sư Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu đã tạo được 4 đạo tràng lớn và hàng chục tổ đình.
Đinh Quang Mỹ ( Thiền Trúc Lâm, sđd) cho rằng trong thiền sử nước ta, nơi thiền sư Liễu Quán mới thấy có dấu hiệu thực hành công án.
Phong trào phục hưng Phật giáo ở nước ta vào thế kỷ 20 chủ yếu phát xuất từ các cơ sở của phái Liễu Quán.