Năm 1725

Ngày 24 tháng 4 năm Ất Tỵ (1725), cư sĩ Hưng Long, hiệu Thiên Tung Đạo nhân, tức Chúa Nguyễn Phước Châu mất, 51 tuổi, ở ngôi 35 năm, an táng ở xã An Ngọc, huyện Hương Trà (Thuận Hóa).
Từ Chúa Nguyễn Phước Châu về sau, các chùa đều có đạo hiệu theo phái thiền Tào Động.

Chúa Nguyễn Phước Trú là con trưởng của Chúa Nguyễn Phước Châu, mẹ họ Tống, sanh năm Bính Tý (1696), có tài văn võ, được phong chức Cai cơ Đỉnh Thịnh hầu, sau thăng chức Chưởng cơ. Năm Ất Tỵ (1725), Nguyễn Phước Trú (1725 – 1738) lên kế vị ngôi Chúa, tôn là Thái phó, Định Quốc công hay Ninh Vương, đạo hiệu là: “Vân Tuyền Đạo nhân”.

Chúa Nguyễn Phước Trú lên kế ngôi không còn hà khắc với các thiền sư phái Lâm Tế và nhất là từ năm 1744 khi Chúa Võ Vương mở rộng Đàng Trong, pháp tôn của Tổ sư Nguyên thiều đã mở rộng phạm vi hoằng dương Phật pháp ở miền Nam.

Có lẽ Chúa Nguyễn Phước Trú xóa bỏ tội của những người tham dự cuộc âm mưu nổi loạn năm 1694 nên Chúa đã cho đồng chúng của Tổ sư Nguyên Thiều lập tháp cho Tổ ở làng Dương Xuân Thượng thuộc Đô thành Phú Xuân, gọi là tháp Hóa Môn và ban cho bài minh viết lên tháp vào năm 1729.

Chúa đã cho thiền sư Minh Giác – Kỳ Phương (hay Thành Đạo) là đệ tử của Tổ sư Nguyên Thiều đang trụ trì chùa Quốc Ân sang trụ trì chùa Thiên Mụ. Theo tài liệu chùa Quốc Ân: “Khi tổ sư Nguyên Thiều ra trụ trì chùa Hà Trung thì thiền sư Minh Giác – Kỳ Phương trụ trì chùa Thiên Mụ kiêm hóa chủ chùa Quốc Ân. Đến niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 12 (năm 1739), thiền sư Kỳ Phương mới cáo chức trụ trì chùa Thiên Mụ về bảo trí ở chùa Quốc Ân”.
Như vậy trong khoảng thời gian 1725 – 1739 trụ trì chùa Thiên Mụ có thể là thiền sư Minh Giác – Kỳ Phương. Sau khi Chúa Nguyễn Phước Trú chết (năm 1738) Chúa Nguyễn Phước Khoát lên nối ngôi, thiền sư Kỳ Phương xin từ chức chùa Thiên Mụ, để cho đệ tử là thiền sư Thiệt Kiến – Liễu Triệt thay thế trụ trì chùa Thiên Mụ.

Từ Đồng Nai, các pháp tôn của tổ thuộc phái thiền Lâm Tế đã tỏa rộng hoằng hóa khắp miền Nam (Lục tỉnh Nam Kỳ sau này).

This entry was posted in . Bookmark the permalink.