Năm 1747 (Đinh Mão – PL.2291), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8, đời vua Lê Hiển Tông.
– Ngày 08 tháng 4 năm Đinh Mão, lễ Phật Đản, Thiền sư Tế Hiển – Bửu Dương, chứng minh đúc đại hồng chung chùa Thiên Bửu (Ninh Hòa, Khánh Hòa), do ngài khai sơn. Thiền sư là đệ tử của Tổ sư Thiệt Diệu – Liễu Quán, nối dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán, đời thứ 36.
– Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban biển ngạch sắc tứ chùa Thuyền Tôn tại núi Thiên Thai xã An Cựu, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong xứ Thuận Hóa. Chùa này do Thiền sư Thiệt Diệu – Liễu Quán (1667-1742) sáng lập.
– Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) sắc cử Thiền sư Tế Nhơn – Giác Viên (?-1754) trụ trì chùa Báo Quốc trên đồi Hàm Long, thuộc ấp Trường Giang, huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân và thừa lệnh trùng tu chùa này. Chúa ngự đề biển ngạch “Sắc tứ Báo Quốc tự” và cúng dường chùa tượng Phật và pháp khí; đồng thời Thiền sư Giác Viên mua ruộng đất cho chùa.
– Hương Hải Thiền sư ngữ lục được khắc bản in. Ngữ lục này có 1 quyển, do đệ tử nối pháp của Thiền sư Minh Châu – Hương Hải (1628-1715) soạn thuật, ghi chép lại hành trạng của Thiền sư. Nội dung lục này gồm có :
- Bài tựa,
- Tiểu sử Thiền sư Hương Hải,
- Sư bị chúa nghe lời dèm pha truyền cho về quê cũ,
- Sư ra vùng bên ngoài gần trấn lập Thiền Tịnh viện,
- Thiền sư ra trụ trì, khai sáng chùa Nguyệt Đường,
- Khai thị ngộ nhập được duyên tốt truyền trao ấn chứng,
- Sư năm tám mươi tám tuổi dặn dò Niết-bàn.
– Thiền sư Đại Thông – Chánh Niệm (1710-1810) kế thế trụ trì Phước Am trên đồi Hoa Sơn. Sau đó, ngài dời Phước Am đến phường Phương Sài, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, và đổi tên là Hội Phước tự như hiện nay.
– Hòa thượng Tế Hiệp – Hải Điện (?-1775) trụ trì chùa Thuyền Tôn (tại ấp Ngũ Tây, xã An Cựu, tổng An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên) cùng cư sĩ Tế Ý (Chưởng Thái giám Đoán Tài Hầu) và Phật tử chú tạo Đại hồng chung.
– Thiền sư Tánh Tuyên (1700-1755) trụ trì chùa Quang Ân (Thanh Trì – Thăng Long), khắc in sách Bồ Đề Yếu Nghĩa.