Năm 1795

Năm 1795, Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, một tác phẩm độc đáo của Thiền Tông Việt Nam được khắc in rất đẹp. Tác giả là Hải Lượng – Thiền Sư (Ngô Thời Nhiệm (1746 – 1803)), Hải Âu (Vũ Trinh (1726 – 1823)) và Hải Hòa (Nguyễn Đăng Sở). Cả ba đều là những tên tuổi lớn trong văn giới, những trí thức lớn thời đại xuất thân từ các danh gia vọng tộc. Ngô Thời Nhiệm đã từng là Binh Bộ Thượng Thư thời vua Quang Trung, một tay thảo tất cả văn kiện ngoại giao dưới triều Tây Sơn được triều đình nhà Thanh nể vì. Có thể là Ngô Thời Nhiệm đã thai nghén tác phẩm này trong giai đoạn (1782 – 1786), khi ông đi trốn sự trả thù của chúa Trịnh Tông (sau khi cướp ngôi chúa của Trịnh Cán).

Trong phần mở đầu, Ngô Thời Nhiệm trình bày tiểu sử ba vị tổ thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang, rồi viết về ông và tự gọi là Trúc Lâm Đệ Tứ Tôn ( nghĩa là tổ thứ tư). Phần chính của tác phẩm này là 24 chương về 24 Thanh, luận bàn về 24 vấn đề liên hệ đến giáo lý Nho và Phật. Mỗi Thanh bắt đầu bằng một bài dẫn, sau đó là phần trình bày sự kiện có khi được bàn luận ngang dọc giữa thầy trò, sống động như một vở kịch nhưng không cực đoan. Cuối cùng là lời bình giải của thiền sư Hải Lượng (Ngô Thời Nhiệm).

Theo Đinh Quang Mỹ (Thiền Trúc Lâm), Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh dùng bút pháp chỉ thẳng của Thiền Tông, văn phong của Nam Hoa Kinh tạo lối hành văn nửa hư nửa thực, vận dụng biện chứng âm dương của Kinh Dịch giải thích các tư tưởng trừu tượng của Đại Thừa và diễn rộng tư tưởng kinh Lăng Nghiêm để tả các hoạt động cực kỳ tế nhị của chân tâm.

Theo Nhất Hạnh (Nguyễn Lang, VNPGSL 2, tr. 229), Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh không phải là công trình đem đạo Phật về với đạo Nho mà trong đó Nho và Phật không còn phân biệt nữa. Với Hải Lượng, tuệ giác nằm trong lòng sự sống nên cuộc sống là quan trọng chứ không phải hình thái ý thức hệ.

Ngô Thời Nhiệm theo học Phật từ hồi còn trẻ, có thể là với thiền sư Tính Quảng. Lúc làm quan ở trấn Kinh Bắc năm 1775, ông đã dâng Phật hiệu cho cha ông (Ngô Thời Sĩ, người ra lệnh cho con cái chỉ được theo Nho, cấm không được theo Phật hay Lão) là Nhị Thanh Trường Thọ Quán Tự Tại Phúc Lượng Đại Hải Chân Như Vô Tận Ý Bồ Tát.

Vào khoảng 1798 – 1799 nhận thấy tương lai nhà Tây Sơn không còn, ông về ẩn dật, lập thiền viện Trúc Lâm ở phường Bích câu. Uy tín của ông đã lôi cuốn được nhiều trí thức lớn vào thiền phái Trúc Lâm. Trước đó, Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh  đã ghi có 26 người tham dự cuộc “thiền đàm” này. Chính tại thiền viện Trúc Lâm, ông đã viết Tam Tổ Hành Trạng về tiểu sử của Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Lê Mạnh Thát (TTTNT, TR.334 – 335) cho rằng chính do ảnh hưởng của Hải Lượng Thiền Sư Ngô Thời Nhiệm mà Huyền Quang được coi là tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm. Theo ông, chính thiền sư Kim Sơn mới là tổ thứ ba của Trúc Lâm, qua sự xác nhận của vua Trần Minh Tông trước khi băng hà vào năm 1358.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.