Năm 1811 (Tân Mùi – PL.2363), niên hiệu Gia Long (1802-1820) thứ 10, đời vua Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh, 1802-1820).
– Ngày 14 tháng 4 năm Tân Mùi, Hòa thượng Hải Quýnh – Từ Phong (1728-1811) hiệu Từ Phong, họ Nguyễn, quê ở thôn Nghiêm Xá, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, thuộc tông Lâm Tế, đời thứ 40, hoằng hóa ở các chùa Liên Hoa, Hàm Long, Nghiêm Xá, viên tịch, thọ 84 tuổi.
– Tháng 5 năm Tân Mùi, Thiền sư Pháp Ấn – Quảng Độ (1739-1811) chú nguyện đúc quả tiểu hồng chung và khánh đồng tại chùa Phước Lâm ở Hội An, Quảng Nam.
– Ngày 17 tháng 9 năm Tân Mùi, Hòa thượng Pháp Ấn – Quảng Độ (1739-1811), pháp danh khác là Phật Tuyết – Tường Quang, thế danh Nguyễn Văn Viên, sinh tại huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, thuộc Tông Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 36, trụ trì chùa Phước Lâm (Quảng Nam) kiêm trụ trì chùa Viên Tông, viên tịch, thọ 73 tuổi.
– Thiền sư Quảng Tâm – Trí Huệ (1770-1811), thuộc thiền phái Lâm Tế, trụ trì chùa Sắc tứ Linh Thứu (Châu Thành, Mỹ Tho), thị tịch, trụ thế 41 năm.
– Vua Gia Long đổi tên chùa Sắc tứ Linh Thứu thành chùa Long Tuyền nay tại xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Cũng năm này, Thiền sư Thoại Lâm kế thế trụ trì chùa Sắc tứ Linh Thứu.
– Thiền sư Như Thanh – Huệ Tịnh, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 39, kế thế trụ trì chùa Kim Tiên nay tại khu 7, thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (1811-1856).
– Thiền sư Thoại Lâm kế thế trụ trì chùa Sắc Tứ Linh Thứu, hiện tại ở Xoài Hột, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (1811-1832).
– Vua Gia Long mở Đại trai đàn ở chùa Thiên Mụ, cho thỉnh các cao tăng ở phủ Gia Định ra kinh đô Phú Xuân bằng “ngựa trạm” (rước bằng ngựa, như các đại thần).
– Thiền sư Đạo Thâm – Thanh Tịnh làm Hội chủ cùng thiện tín thập phương chú tạo Đại hồng chung chùa Lý Hòa (chùa Vĩnh Phước) ở làng biển Lý H a, xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Chuông có chiều cao 144 cm; đường kính miệng 56 cm; đường kính thân trên 42 cm.