Năm 1813

Năm 1813 (Quý Dậu – PL.2357), niên hiệu Gia Long (1802-1820) thứ 12, đời vua Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh, 1802-1820).

– Ngày 25 tháng 5, Thiền sư Liễu Minh – Đức Tạng (?-1813) họ

Nguyễn, nguyên quán thôn Đắc Nhơn, phủ Ninh Thuận, tỉnh Khánh Hòa, thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 37, Tổ khai sơn chùa Thiền Lâm (Ninh Sơn – Ninh Thuận) thị tịch.

– Ngày 28 tháng 7 năm Quí Dậu, Thiền sư Liễu Năng – Đức Chất được cấp bảng Chính pháp nhãn tạng (Điệp phú pháp), thuộc phái thiền Lâm Tế, đời thứ 37.

– Phó tướng Trần Nhân Phụng vâng chỉ dụ của Cao hoàng hậu, ban 10.000 quan tiền để trùng tu chùa Kim Chương ở Gia Định, chỉnh trang chuông tượng, tu chỉnh kinh tạng…cho chùa được thêm trang nghiêm tráng lệ. Chùa được ban “Sắc tứ Thiên Trường tự” (BNSPGGĐ-SG).

– Thiền sư Tịch Thọ – Trinh Tường, thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 37, trùng tu chùa Long Khánh hiện tại số 141, đường Trần Cao Vân, Tp. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

– Hòa thượng Đạo Trung – Trọng Nghĩa, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 38, trùng hưng chùa Ấn Tôn (sau đổi tên là chùa Từ Đàm, trên đồi dãy Hoàng Long Sơn, Thuận Hóa – Huế) và chú tạo Đại hồng chung.

– Thiền sư Khoan Nhơn – Tịnh Đức, thuộc Thiền phái Tào Động, hưng công đại trùng tu chùa Trấn Quốc nay tại số 32, đường Thanh Niên, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Tp. Hà Nội.

– Thiền sư Tiên Vân – Ấn Tông, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 37, kế thế trụ trì chùa Đức Lâm nay tại xã Mỹ Phong, Tp. Mỹ Tho (1813-1844).

– Khoảng năm 1813, Thiền sư Phật Kế – Hoằng Kim trụ trì chùa Trường Thọ, chứng minh khai sơn và đặt hiệu chùa Quang Long nay tại làng Đại Tập, xã Ninh Thân, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, và ngài kiêm nhiệm trụ trì luôn chùa Quang Long. Chùa này do vợ chồng ông Trần Văn Cẩn cải gia vi tự, để làm ngôi Tam Bảo tu hành lúc tuổi già.

NĂM 1814 (GIÁP TUẤT – PL.2358), niên hiệu Gia Long (1802-1820) thứ 13, đời vua Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh, 1802-1820).

– Ngày 14 tháng 09 năm Giáp Tuất, Thiền sư Tánh Thiên – Nhất Định (1783-1847) được Hòa thượng Đạo Minh – Phổ Tịnh trao truyền tâm ấn và phú pháp kệ như sau : “Nhứt Định chiếu tâm minh, hư không trăng tròn đầy, tổ tổ truyền phó chúc, Đạo Minh truyền Tánh Thiên” (LSPGĐT).

– Đạo Hương – Đức Tín đúc bảo chung tại chùa Khánh An thuộc làng Khánh Thiện, phường Mũi Né, Phan Thiết, dưới sự chứng minh của Hòa thượng Đạo Chơn – Thường Trung.

– Thiền sư Phổ Chiêu (1777-1814) thế danh Phạm Phượng Sinh, tên khác Phạm Thái, tự Đan Phượng, hiệu Chiêu Lì, người làng Yên Thị, xã Yên Thường, tổng Xuân Dục, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (Hà Nội), thị tịch, trụ thế 37 năm. Tác phẩm của Thiền sư : Sơ Kính Tân Trang (theo Phật Giáo Thời Hậu Lê, tập 4, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, NXB Tôn Giáo 2014).

– Thiền sư Tánh Chiếu – Nhứt Niệm (?-1857) được Hòa thượng Đạo Minh – Phổ Tịnh ấn chứng và phú pháp kệ như sau :

“Một niệm tâm thường viên,

Tâm pháp vốn tự nhiên,

Tổ đạo truyền pháp ấn,

Quang huy mãi lưu truyền” (CTTĐPGTH).

– Thiền sư Đạo Tâm – Trung Hậu (?-1834) tổ chức khắc bản in các kinh Kim Cang, kinh Thọ Mạng – Hồng Danh – Vu Lan và kinh Di Đà – Phổ Môn hợp bản. Mộc bản khắc hiện lưu trữ tại chùa Từ Đàm, Huế nhưng không còn đầy đủ.

– Thiền sư Tổ Ấn – Mật Hoằng (1754-1825) được vua Gia Long triệu ra kinh đô Thuận Hóa phong chức Tăng cang chùa Thiên Mụ.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.