Năm 1825 (Ất Dậu – PL.2369), niên hiệu Minh Mệnh (1820-1840) thứ 13, đời vua Thánh Tổ (Nguyễn Phúc Đảm, 1820-1840).
– Tháng 3 năm Ất Dậu, Vua Minh Mệnh cử Thiền sư Tiên Giác – Hải Tịnh (1788-1875) trụ trì chùa Giác Lâm, ra kinh đô Huế, làm Tăng cang chùa Thiên Mụ thuộc huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân (Huế).
– Ngày 15 tháng 10 năm Ất Dậu, Hòa thượng Tánh Toàn – Nhất Thể hưng công khắc bản bộ Luật Giải của ngài Độc Thể biên soạn, gồm có 4 cuốn luật tiểu đó là (1) Tỳ-ni nhật dụng, (2) Sa-di luật nghi yếu lượt tăng chú quyển thượng, (3) Sa-di luật nghi yếu lượt tăng chú quyển hạ, (4) Quy Sơn cảnh sách cú thích.
– Vua ngự giá đến chùa Tam Thai núi Ngũ Hành, huyện Hòa Vang, Quảng Nam, và sắc trùng tu lại chùa này.
– Thiền sư Liễu Đạo – Chí Tâm (?-1865) được vua cử làm trụ trì chùa Thánh Duyên trên núi Túy Vân, nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cũng trong thời gian này, Thiền sư khai sơn thảo am Thiên Hưng trong dãy Hoàng Long Sơn, làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, Huế.
– Thiền sư Hải Bình – Bảo Tạng (1818-1872) khởi công trùng tu chùa Thiền Lâm nay tại thôn Đắc Nhơn, xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.
– Thiền sư Minh Tánh – Thiện Thành (1805-1865) khai sơn xây dựng chùa Long Sơn tại làng Phú Hữu, Thủ Dầu Một (nay thuộc xã Phú Mỹ, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương).
– Thiền sư Tiên Ngộ – Gia Hội (?-1829 ?) lập thảo am trên núi Thần Đinh, tại nền cũ của cổ tự Kim Phong (thuộc xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh).