Năm 1849

Năm 1849 (Kỷ Dậu – PL.2493), niên hiệu Tự Đức (1847-1883) thứ 3, đời vua Dục Tông (Hồng Nhậm, 1847-1883).

– Tháng 4 năm Kỷ Dậu, Hiệp Biện Đại học sĩ Nguyễn Đăng Giai, pháp danh Đại Phương, soạn bài văn bia “Sắc tứ Từ Hiếu Tự bi ký” kể sự tích chùa Từ Hiếu (nay thuộc xã Dương Xuân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên) và tiểu sử Hòa thượng Tánh Thiên – Nhứt Định (1784-1847), đồng thời dựng bia tại chùa này.

– Ngày 10 tháng 10, Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh (1778-1875) cử Thiền sư Liễu Ngọc – Phổ Minh (1826-1900) về trụ trì ngôi thảo am do Phật tử Như Định cúng dường, và Thiền sư đặt tên là chùa Hội Phước nay thuộc xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

– Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh (1778-1875) thiết lập Giới đàn ở chùa Giác Lâm thuộc xã Phú Thọ, huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn (Gia Định), truyền giới cho tăng sĩ và cư sĩ. Thiền sư được suy tôn làm Hòa thượng Đường đầu.

– Thiền sư Hải Bình – Bảo Tạng (1818-1872) khai sơn chùa Thiền Lâm ở thôn Đắc Nhân, huyện Ninh Sơn (tỉnh Ninh Thuận).

– Hòa thượng Toàn Nhâm – Quán Thông (1798-1883) khởi công xây dựng Tiền đường chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam) và tạc tượng Thập bát La-hán, Thập điện Diêm Vương, tượng ông Thiện, Ác tôn thờ tại chùa này.

Thiền sư Hải Thuận – Lương Duyên (1806-1892) được cử về trụ trì Quốc tự Diệu Đế hiện tại đường Bạch Đằng, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế, sau đó được cử làm Tăng cang chùa này trải qua 10 năm.

– Khoảng năm 1849, Thiền sư Đạt Trí – Huệ Đăng (1804-1870) khai sơn chùa Bửu Phước (hiện tại ấp 3, xã Long Khê, huyện Cần Đước, tỉnh Long An). Chùa được làm bằng sườn gỗ, cột tròn tứ trụ, vách ván, mái ngói âm dương.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.