Năm 1852

Năm 1852 (Nhâm Tý – PL.2396), niên hiệu Tự Đức (1847-1883) thứ 6, đời vua Dục Tông (Hồng Nhậm, 1847-1883).

– Ngày 18 tháng 4 năm Nhâm Tý, Hòa thượng Tiên Đề – Chơn Phẩm (1782-1852), thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 37, trụ trì chùa Long Hưng (Bến Cát, Bình Dương), viên tịch, trụ thế 70 năm.

– Ngày 27 tháng 9 năm Tân Hợi, Hòa thượng Tánh Huệ – Nhứt Chơn (?-1852), thế danh Nguyễn Văn Chơn, pháp danh Tánh Huệ, hiệu Nhứt Chơn, quê ở ấp Kiên Chánh, huyện Phù Ly, phủ Qui Nhơn, trấn Bình Định, thuộc Tông Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 39, Tăng cang chùa Thiên Mụ, Tổ khai sơn chùa Từ Quang (Thuận Hóa), viên tịch.

– Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh (1778-1875) cử đệ tử là Thiền sư Minh Vi – Mật Hạnh làm trụ trì chùa Giác Viên ở Gia Định, nay thuộc phường 3, quận 11, Tp. HCM.

– Thiền sư Liễu Triệt – Từ Minh (?-1882) lập thảo am Viên Quang (sau này xây dựng thành chùa Linh Quang) ở làng Phú Xuân – Huế.

– Tăng cang Tiên Giác – Hải Tịnh (1778-1875, chùa Giác Lâm) và Tăng cang Hải Châu – Minh Giác (Sắc tứ Kim Chương) cho đệ tử lập chùa am ở những vùng mới khai phá. Vùng Cai Lậy có Minh Trừ – Quảng Huệ, vùng Tân An có Minh Lương – Chánh Tâm, vùng Tháp Mười có Thanh Đường – Diệu Hán, vùng An Giang có Liễu Huệ – Minh Ngọc, Minh Thông – Hải Huệ (BNSPGGĐ-SG).

– Thiền sư Tánh Thông – Nhứt Trí (?-1873), trụ trì chùa Thánh Duyên (Phú Xuân, Huế), được vua Tự Đức cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê, huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân, Huế.

– Hòa thượng An Thiền – Phúc Điền về trụ trì chùa Liên Phái ở Hà Nội. Hòa thượng tổ chức và chỉnh đốn lại chùa này.

– Thiền sư Minh Lịch – Chánh Từ (1820-1884) kế thế trụ trì chùa Long Hưng nay tại ấp 4, xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

– Bảo tháp Tổ sư Nguyên Thiều (1648-1728) tọa lạc tại xứ Cửa Hóa (Hóa Môn), thuộc làng Dương Xuân Thượng (nay nằm cạnh đường Võ Văn Kiệt, phường Thủy Xuân, Tp. Huế) được trùng tu.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.