Năm 1872

Năm 1872 (Nhâm Thân – PL.2416), niên hiệu Tự Đức (1847-1883) thứ 26, đời vua Dục Tông (Hồng Nhậm, 1847-1883).

– Ngày 08 tháng 4, Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh (1788-1875) được suy tôn làm Hòa thượng Đường đầu cho giới đàn chùa Huỳnh Long (Cai Lậy), Thiền sư Quảng Huệ – Trừng Trữ (1829-1889) làm Giáo thọ.

– Ngày 25 tháng 5 năm Nhâm Thân, Thiền sư Hải Bình – Bảo Tạng (1818-1872) húy Hải Bình, thế danh Lê Chi, quê ở làng Nguyễn Chi, Phú Yên, thuộc Tông Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 40, Tổ khai sơn chùa Cổ Thạch (Bình Thuận), thị tịch tại chùa Ngọc Tuyền (Long Đất, Bà Rịa – Vũng Tàu), trụ thế 54 năm.

– Ngày 03 tháng 7 năm Nhâm Thân, Hòa thượng Toàn Ý – Phổ Huệ

(1799-1872) thế danh Lê Tấn Viên, pháp danh Toàn Ý, tự Vi Tri, hiệu Phổ Huệ, sinh tại tỉnh Bình Định, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 37, Tổ khai sơn chùa Phổ Bảo (Bình Định), viên tịch, thọ 73 tuổi.

– Thiền sư Chương Hiệp – Chánh Trì (1833-1910) kế thế trụ trì chùa Phổ Bảo ở tổng Nhơn Ân, huyện Tuy Phước, phủ Hoài Nhơn, trạm Bình Điền, dinh Quảng Nam.

– Chùa Liên Phái (Ly Cấu viện) nay tại phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội, dựng bia Trùng hưng. Chùa này do Thiền sư Như Trừng – Lân Giác (1696-1733) khai sơn (Phật Giáo Thời Hậu Lê, tập 4, Viện Nghiên Cứu Phật Học Phật Học Việt Nam, NXB Tôn Giáo 2014).

– Thiền sư Như Trường – An Tịch, thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 39, khai sơn chùa Long Sơn nay thuộc xã Thới Hòa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.