Năm 1876 (Bính Tý – PL.2420), niên hiệu Tự Đức (1847-1883) thứ 30, đời vua Dục Tông (Hồng Nhậm, 1847-1883).
– Thiền sư Chương An – Tông Bổn – Quảng Khánh (?-1876) thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 38, trụ trì Tổ đình Thắng Quang (Hoài Nhơn, Bình Định), thị tịch.
– Thiền sư Ấn Luân – Hoằng Hóa (?-1913) kế thế trụ trì Tổ đình Thắng Quang tại thôn Hy Tường, xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
– Hòa thượng Huệ Hương và Thiền sư Ấn Thiên – Huệ Nhãn (1840-?) chứng minh cho ngài Chơn Khả – Kiết Tường (trụ trì chùa Phước Quang, Đồng Xuân – Phú Yên) đúc Đại hồng chung.
– Thiền sư Đạt Pháp – Huệ Tánh (1849-1914) sáng lập chùa Khải Phước nay tại ấp ½, xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, trên khu đất do kiến họ Hà hiến cúng.
– Thiền sư Ngộ Thiệu – Minh Lý (1836-1889) tôn tạo các pho tượng Phật, Bồ-tát, La-hán, Tổ sư,…đều bằng gỗ ở chùa Thập Tháp Di Đà nay thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cũng năm này, ngài lập bia “Sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự bi minh”, do cư sĩ T ng Khê Dương Thanh Tu biên soạn văn. Nội dung bia lược nói vị thế của chùa, quá trình khai sáng, xây dựng trùng tu và công trạng của chư vị Hòa thượng Tổ sư trụ trì.