Năm 1884 (Giáp Thân – PL.2428), niên hiệu Kiến Phúc (1883-1884) năm cuối, đời vua Kiến Phúc (Ưng Đăng, 1883-1884); năm đầu đời vua Hàm Nghi (Ưng Lịch, 1884-1885).
– Tháng 11 năm Quý Mùi, Hòa thượng Chương Đắc – Trí Tập (1817-1884) thế danh Nguyễn Trí Tập, pháp danh Chương Đắc, hiệu Trí Tập, sinh tại tỉnh Bình Dương, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 38, trụ trì chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch, thọ 67 tuổi.
– Ngày 04 tháng 4 năm Giáp Thân, Hòa thượng Chương Quảng – Mật Hạnh (1822-1884), thế danh Hồ Văn Châu, pháp danh Chương Quảng, tự Tuyên Châu, hiệu Mật Hạnh, sinh tại châu Hà Mật, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 38, trụ trì Tổ đình Tam Thai (Hòa Vang, Quảng Nam), viên tịch, thọ 63 tuổi.
– Ngày 26 tháng 5 năm Giáp Thân, Hòa thượng Minh Lịch – Chánh Từ (1820-1884), thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 38, trụ trì chùa Long Hưng (Bến Cát, Bình Dương), viên tịch, thọ 65 tuổi.
Ngày 19 tháng 7 năm Giáp Thân, Thiền sư Minh Phước – Tư Trung (1830-1884), thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 38, trụ trì chùa Bửu Hưng (Lai Vung, Đồng Tháp), thị tịch, trụ thế 54 năm.
– Tháng 12, tượng Phật bằng vàng thờ ở Đạo Nguyên các tại chùa Diệu Đế ở Phú Xuân – Huế, bị mất trộm, Thiền sư Hải Thuận – Lương Duyên (1805-1895) đã phải nhờ Phật tử quyên góp đủ số vàng để đúc tượng Phật khác rồi tâu trình thú tội mới được miễn thâm cứu, Bá hộ Trần Kỳ bị phạt đ n 100 trượng, nhưng được giảm một bực, còn 90 trượng, còn dân phu canh gác trong ngày ấy mỗi người bị đánh đ n 50 roi (LSPGĐT).
– Thiền sư Ấn Bổn – Vĩnh Gia (1840-1918) được triều đình bổ nhiệm làm trụ trì chùa Linh Ứng trên núi Ngũ Hành, huyện Hòa Vang, Quảng Nam.
– Năm 1884-1885, Đàng trong nạn đói xảy ra trầm trọng, Thiền sư Thiệu Ngộ – Minh Lý (1836-1889) vận động, quyên góp được 800 quan để nộp triều đình cứu trợ nạn đói.
– Thiền sư Ấn Thanh – Chí Thành (1841-1895) kế thế trụ trì Tổ đình Tam Thai ở núi Ngũ Hành, huyện Hòa Vang, Quảng Nam.
– Thiền sư Ấn Long – Thiện Quới (1837-1906) kế thế trụ trì chùa Hội Khánh nay tại phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
– Thiền sư Ấn Lan – Từ Trí (1852-1921) được Hòa thượng Chương Quảng – Mật Hạnh (trụ trì chùa Linh Ứng, núi Ngũ Hành, Quảng Nam) ấn chứng, trao truyền y bát, phú chúc với pháp hiệu là Từ Trí.
– Thiền sư Như Bạch – Thiện Huệ (1850-1935) lập thảo am để thờ Phật, tham thiền (sau xây dựng thành chùa Long Thành) nay tại số 235, tổ 4, ấp Bình Tả 1, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
– Thiền sư Như Sơn – Thới Cư (?-1915) kế thế trụ trì chùa Long Hưng nay tại ấp 4, xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
– Thiền sư Bửu Minh (?-1936) khai sáng chùa Bửu Hưng (nay là Minh Long Cổ tự) tại xã Bình An, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, do bà Thị Chô hiến cúng khu đất hoang.
– Hòa thượng Hải Châu – Minh Giác (1791-1884), hiệu Kỳ Phương, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 40, Tổ khai sơn chùa Hội Thọ (Cái Bè, Tiền Giang), viên tịch, thọ 94 tuổi.
– Chùa Hội Tôn hiện tại ấp 8, xã Qưới Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, được trùng tu. Chùa này tiếp tục trùng tu vào những năm : 1947 và 1992.