Năm 1887 (Đinh Hợi – PL.2431), đời vua Đồng Khánh (Ưng Xụy, 1885-1888).
– Ngày 05 tháng 10 năm Đinh Hợi, Hòa thượng Thông Ân – Hữu Đức (1812-1887) thế danh Trần Hữu Đức, pháp danh Thông Ân, hiệu Hữu Đức, quê ở làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 40, Tổ khai sơn chùa Linh Sơn Trường Thọ (núi Trà Cú – Bình Thuận), viên tịch, thọ 74 tuổi, 53 tăng lạp.
– Thiền sư Minh Khiêm – Hoằng Ân (1850-1914) nhận một ngôi chùa mới ở tỉnh Chợ Lớn, Gia Định, do bà Trần Thị Liễu ở làng Tân Hòa Đông hiến cúng. Thiền sư bèn đặt tên là chùa Giác Hải, đồng thời cử đệ tử là Thiền sư Như Nhãn – Từ Phong (1864-1938) đến trụ trì.
– Thiền sư Ấn Bổn – Vĩnh Gia (1840-1918) kế thế trụ trì chùa Phước Lâm ở Hội An, Quảng Nam.
– Tuy Lý Vương Miên Trinh lập chùa Phước Huệ tại thôn Vỹ Dạ, kinh thành Huế, để cho Thiền sư Chơn Tâm – Pháp Thân (1869-1895, cháu nội của Tuy Lý Vương) tu hành.
– Ni sư Viên Thông, trụ ở chùa Đông Thuyền (Thuận Hóa – Huế) là đệ tử của Thiền sư Tánh Hoạt – Huệ Cảnh, được vua ban cho một ngân bài có bốn chữ “Tiết Hạnh Khả Phong”.
– Thiền sư Chương Nhẫn – Quảng Hóa (?-1887), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 38, trụ trì Tổ đình Phước Lâm (Quảng Nam) viên tịch.
– Thiền sư Chơn Đĩnh – Phước Thông (1866-1951), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, Tổ khai sơn chùa Phước Thiện (Quảng Nam), viên tịch, thọ 86 tuổi.
– Thiền sư Liễu Tánh – Kỳ Phương (1815-1887), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 37, trụ trì chùa Long Phước (Vĩnh Long), viên tịch, thọ 73 tuổi.
– Thiền sư Trừng Thâu (?) – Chơn Ngữ (?-1902) khai sơn chùa Thiên Long nay tại số 267, ấp Thanh Phong, xã Bình Lãng, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, do Phật tử Nguyễn Văn Hiệp hiến cúng đất.