Năm 1889

Năm 1889 (Kỷ Sửu – PL.2433), năm đầu đời vua Thành Thái (Bửu Lân, 1889-1907).

– Ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Sửu, Hòa thượng Pháp Huy – Tâm Viên (?-1889) trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), viên tịch.

– Ngày 17 tháng 9 năm Kỷ Sửu, Hòa thượng Trừng Trữ – Quảng Huệ (1829-1889) thế danh Tô Ngọc Trữ, pháp húy Trừng Trữ, hiệu Quảng Huệ, quê ở làng Bình Phú, thôn Tổng Lợi Thuận, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường, thuộc dòng thiền Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 42, trụ trì chùa Phước Lâm (Cai Lậy, Tiền Giang), viên tịch, thọ 61 tuổi.

Ngày 12 tháng 10 năm Kỷ Sửu, Thiền sư Minh Tịnh – Bảo Châu (?-1889), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 38, trụ trì chùa Hưng Long (Phước Lộc, Trấn Biên (Bình Dương), viên tịch.

– Ngày 05 tháng 11 năm Kỷ Sửu, Hòa thượng Ngộ Thiệu – Minh Lý (1836-1889) thế danh Trần Văn Lý, pháp danh Ngộ Thiệu, hiệu Minh Lý, quê ở làng Thuận Chánh, thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 39, Tăng cang chùa Thập Tháp Di Đà (Bình Định), thị tịch, hưởng dương 54 tuổi.

– Hòa thượng Chánh Hậu (1852-1923) trùng tu chùa Sắc Tứ Linh Thứu, nay thuộc xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

– Thiền sư Chơn Châu – Vạn Thành (1865-1905) kế thế trụ trì chùa Thập Tháp – Di Đà nay thuộc thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

– Tỳ-kheo Đạt Lý – Huệ Lưu kế thế trụ trì chùa Huê Nghiêm nay ở số 204, đường Đặng Văn Bi, quận Thủ Đức, Tp. HCM.

– Thiền sư Chơn Kim – Pháp Lâm (1861-1898) kế thế trụ trì chùa Viên Thông dưới chân núi Ngự Bình, xã Thủy An, huyện Hương Thủy, TP. Huế.

– Hòa thượng Ấn Hoàn – Tuyên Khánh – Thiện Hò (1811-1889) thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 39, trụ trì chùa Sơn Long (Quy Ninh, Bình Định), viên tịch, thọ 79 tuổi.

– Thiền sư Chơn Định – Chí Hạnh (1802-1890) kế thế trụ trì chùa Sơn Long ở núi Trường Úc, thôn Thuận Nghi, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Ninh, trấn Bình Định.

– Chùa Từ Quang trên núi Bạch Thạch, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, được triều đình ban biển ngạch Sắc tứ. Chùa này do Thiền sư Pháp Chuyên – Diệu Nghiêm (1726-1798) khai sơn.

– Thiền sư Pháp Tạng trụ trì chùa Phước Sơn (Phú Yên) ra Huế thuyết giảng Phật pháp tại chùa Kim Quang và chùa Viên Thông, được vua Thành Thái quí mến ban cho đồng kim tiền, 1 chiếc ca-sa và 1 mũ Quan Âm. Cũng nhân dịp này, Thiền sư vận động tín đồ đóng góp đúc quả đại hồng chung nặng 100 kg (Lược sử Phật giáo và Các chùa Phú Yên).

– Thiền sư Thanh Minh – Tâm Truyền (1832-1911) được vua Thành Thái ban 3.000 quan để trùng tu chùa Diệu Đế nay tại TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

 Như Thể – Trí Thức (?-1898) kế thế trụ trì chùa Hưng Long nay thuộc ấp 2, xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

– Thiền sư Phương Danh – Minh Mai (1815-1902) khai sơn chùa Phước Quang nay tại xã Mỹ Lợi, tỉnh Đồng Tháp.

– Thiền sư Từ Quang – Ngộ Cảm (?-1924) về trụ trì chùa Long Quang hiện tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, phường Long H a, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ.

– Sa-di ni Hải Thông – Đạo Ý (1813-1889) thế danh Công Nữ Ngọc Viên, pháp danh Hải Thông, tự Đạo Ý, hiệu Viên Thông, con gái thứ hai của Kiến An vương Nguyễn Phước Đài, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 40, tự chủ chùa Đông Thuyền (Thuận Hóa, Huế), viên tịch, thọ 76 tuổi.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.