Năm 1902

Năm 1902 (Nhâm Dần – PL.2446), đời vua Thành Thái (Bửu Lân, 1889-1907).

– Ngày 19 tháng 2 năm Nhâm Dần, Chùa Hưng Long tại xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, khai đại giới đàn, do Hòa thượng Như Chơn – Thới Trực (?-1910) làm Hòa thượng Đàn đầu.

– Ngày 31 tháng 7 (nhằm ngày 27 – 6 – Nhâm Dần), Hòa thượng Minh Thông – Hải Huệ (1815-1907) trùng tu và đúc đại hồng chung chùa Bửu Lâm hiện tại ấp 3, xã Hàng Bình Trung, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Chùa này do Thiền sư Thiện Châu khai sơn vào đầu thế kỷ XVIII.

– Ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Dần, Thiền sư Trừng Tỉnh – Nhất Tâm trùng khắc bản bộ Luật Giải của ngài Độc Thể biên soạn, gồm có 4 cuốn luật tiểu đó là (1) Tỳ-ni nhật dụng, (2) Sa-di luật nghi yếu lượt tăng chú quyển thượng, (3) Sa-di luật nghi yếu lượt tăng chú quyển hạ, (4) Quy Sơn cảnh sách cú thích. Đến ngày 20 tháng 12 năm này thì mộc bản khắc hoàn thành, hiện được lưu trữ tại chùa Bảo Lâm thuộc huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, xứ Thuận Hóa.

– Ngày 25 tháng 9 năm Nhâm Dần, Thiền sư Trừng Thâu – Chơn Ngữ (?-1902), thế danh Nguyễn Văn Thâu, húy Trừng Thâu (?), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 42, Tổ khai sơn chùa Thiên Long (Tân Trụ, Long An), viên tịch.

– Thiền sư Tâm Tịnh (1858-1928) xin từ chức trụ trì chùa Từ Hiếu, đến ấp Xuân Hòa, xã Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy (Thừa Thiên Huế) lập Thiếu Lâm trượng thất ẩn tu (sau đổi thành chùa Tây Thiên Di Đà).

– Thiền sư Như Huệ – Thiền Tâm (1853-1905) trùng tu chùa Hội Phước nay ở số 153/2, đường Hoàng Văn Thụ, Tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

– Chùa Giác Viên ở Gia Định sau ba năm trùng tu nay hoàn tất, tổ chức lễ lạc thành.

– Hòa thượng Ấn Lan – Từ Trí (1852-1921) khai Đại trai đàn tại chùa Linh Ứng ở núi Ngũ Hành, huyện Hòa Vang, Quảng Nam, đích thân vua Thành Thái ngự vào dự lễ và ban cho ngài sáu chiếc cà-sa để thưởng cho Phật sự này.

– Thiền sư Như Đạt – Hoằng Thâm (1857-1921) được dân làng thỉnh làm trụ trì chùa Cổ tích Long Sơn (Phú Yên). Từ đó, ngài sáp nhập chùa Thánh Kinh vào chùa Long Sơn, rồi bắt đầu trùng tu đến năm 1908 mới hoàn thành.

– Thiền sư Ấn Long – Thiện Quới (1837-1906) tái trùng khắc bản kinh Tam Bảo.

– Khoảng năm 1902, Hòa thượng Như Sanh – Nhất Ngộ (1824-1902 ?), húy Như Sanh, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 39, Tổ khai sáng chùa Long Châu (Long An), viên tịch.

– Chùa Linh Nguyên nay tại số 236, tổ 4, ấp Bình Tả 1, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, đại trùng tu (1902-1916). Chùa này do Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh khai sơn. Chùa tiếp tục đại trùng tu vào những năm : 1936, 1950.

– Thiền sư Tâm Bờ – Phước Chí (1866-1915) khai sơn xây dựng chùa Thiền Lâm tại xã Hậu Mỹ, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, cử đệ tử là Nguyên Bồng trụ trì.

– Hòa thượng Phương Danh – Minh Mai (1815-1902) thế danh Nguyễn Văn Cẩn, húy Minh Mai, tự Phương Danh, sinh tại xã Cái Thia, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 38, Tổ khai sơn chùa Cổ Tháp (tại Gò Tháp Mười), viên tịch, thọ 88 tuổi.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.