Năm 1908

Năm 1908 (Mậu Thân – PL.2452), đời vua Duy Tân (Vĩnh San, 1907-1916)

– Ngày 01 tháng 3 năm Mậu Thân, Hòa thượng Chương Khước – Giác Tánh (1830-1908) thế danh Lê La Xa, húy Chương Ý, tự Tông Tuyên , hiệu Giác Tánh, sinh tại làng Sung Tích, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 38, trụ trì chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi), viên tịch, thọ 79 tuổi, 42 năm phụng sự.

– Tháng 4, Thiền sư Như Lý – Thiên Trường (1876-1970) tổ chức lễ khánh thành chùa Bửu Lâm thuộc huyện Kiến Hòa, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường (Tiền Giang) và khai trường Hương, chư tăng ở các tỉnh miền Tây về nhập Hạ rất đông, trên dưới 200 vị. Trước ngày mãn Hạ, ngài mở trường Kỳ giới đàn, thỉnh Hòa thượng Hoằng Ân – Minh Khiêm làm Hòa thượng Đàn đầu.

– Ngày 17 tháng 5 năm Mậu Thân, Thiền sư Như Thể – Trí Thức (?-1908), thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 39, trụ trì chùa Hưng Long và chùa Phước Lâm (Tân Uyên – Bình Dương), thị tịch.

– Tháng 5 năm Mậu Thân, Vua Duy Tân cho tu sửa tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê, huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân – Huế.

– Ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thân, Ni trưởng Ấn Ý – Chí Hương (?-1908), pháp danh Ấn Ý, tự Chí Hương, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 39, hoằng hóa ở chùa Bình An và Khánh Long (Quy Nhơn, Bình Định), viên tịch.

– Thiền sư Chơn Luân – Phước Huệ (1869-1945) được vua mời ra hoàng cung giảng đạo, đồng thời cũng để khai một khóa giảng kinh tại chùa Trúc Lâm, nay thuộc xã Thủy Xuân, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Các vua Thành Thái, Duy Tân và Khải Định đều có mời ngài vào cung giảng đạo. Vì vậy ngài được tôn xưng là Quốc sư.

– Hòa thượng Ấn Bổn – Vĩnh Gia (1840-1918) được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng cho giới đàn tại tổ đình Phước Lâm, Hội An, Quảng An. Thiền sư Giác Tiên (1880-1936) thọ giới Cụ túc ở Đại giới đàn này.

– Ngài Phước Hậu (1862-1949) được Bổn sư là Hòa thượng Tâm Truyền ban pháp hiệu Phước Hậu, húy Trường Thịnh, tự Như Trung, nối dòng thiền Lâm Tế, đời thứ 42, và phú pháp kệ như sau :

“Thuần thành bổn tánh mỹ Như Trung

Tảo tận trần tâm Đạo lý chung

Đức thạnh tự năng mông Phước Hậu

Chơn truyền y bát chấn tông phong” (TSDTVN).

– Thiền sư Minh Đức – Bửu Tích (1819-1908), thế danh Bùi Tích, pháp danh Minh Đức, hiệu Bửu Tích, thuộc Thiền phái Lâm Tế, đời thứ 41, Tăng cang chùa Thiên Mụ (Phú Xuân – Huế), viên tịch, thọ 90 tuổi.

– Thiền sư Tâm Minh – Như Thuật (1847-1913) được cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê, huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân – Huế.

– Thiền sư Như Hán – Nguyên Cát (?-1911) kế thế trụ trì chùa Quốc Ân thuộc ấp Phước Quả, làng Phú Xuân, huyện Hương Thủy, phủ Phú Xuân – Huế, đồng thời sung chức trụ trì chùa Viên Quang.

– Thiền sư Thanh Liêm – Tâm Thiền kế thế trụ trì chùa Báo Quốc thuộc ấp Trường Giang, huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân – Huế.

– Thiền sư Ấn Tham – Hoằng Phúc (?-1916) kế thế trụ trì Tổ đình Thiên Ấn ở núi Thiên Ấn nay thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

– Thiền sư Ấn Đàn – Hoằng Đề (1858-1920) được sơn môn thỉnh làm trụ trì Tổ đình Viên Quang (Quảng Ngãi).

– Hòa thượng Thị Quang – Huệ Minh (1816-1908), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 42, trụ trì chùa Phú Sơn (Phan Thiết), viên tịch, thọ 93 tuổi.

– Hòa thượng Huệ Đăng (1873-1953) được cung thỉnh làm Yết Ma kiêm Pháp sư cho Trường Kỳ giới đàn tại chùa Châu Viên thuộc tỉnh Bà Rịa.

– Nguyên Đoàn – Trí Lâm (?-1908), thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 44, trụ trì chùa Đức Sơn (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch.

– Thiền sư Quảng Hòa – Phước Tấn (1816-1913) kế thế trụ trì chùa Đức Sơn tại làng Hiệp Thành, Thủ Dầu Một (Bình Dương).

– Thiền sư Kiểu Thường – Linh Đức (?-1928) kế thế trụ trì chùa Phước Lâm nay tại thị trấn Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

– Thiền sư Như Hán – Nguyên Cát (?-1914) được cử làm trụ trì chùa Quốc Ân ở Thuận Hóa – Huế.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.