Năm 1911

Năm 1911 (Tân Hợi – PL.2455), đời vua Duy Tân (Vĩnh San, 1907-1916)

– Ngày 17 tháng 3 năm Tân Hợi, Thiền sư Như Hán – Thanh Hy (?-1911) thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 42, trụ trì chùa Quốc Ân và chùa Viên Quang (Phú Xuân – Huế), thị tịch, được vua ban thụy là Nguyên Cát (LSPGĐT)(theo sách NCTPGOH cho rằng Thiền sư Như Hán thị tịch ngày 12 tháng 4 âl, năm 1914).

– Ngày 21 tháng 04 (nhuận) năm Tân Hợi, Hòa thượng Thanh Minh – Tâm Truyền (1832-1911) thế danh Đỗ Lương, pháp danh Thanh Minh, tự Huệ Văn, hiệu Tâm Truyền, sinh tại thôn Tiên Kiên, tổng Bích Khê, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tông Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 41, trụ trì chùa Báo Quốc (Thuận Hóa – Huế), viên tịch, thọ 79 tuổi đời, 49 tuổi đạo.

– Tháng 6 năm Tân Hợi, Hòa thượng Hoằng Phúc (1865?-1916) cùng Thiền sư Hoằng Tịnh (1862-1932), Thiền sư Sơn Tịnh – Hoằng Nhiếp, Thiền sư Nghĩa Hành – Hoằng Chương và chư sơn sáu huyện đồng lập bia “Ấn Sơn tự ký minh” tại Tổ đình Thiên Ấn ở núi Thiên Ân nay thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

– Ngày 30 tháng 7 năm Tân Hợi, Thiền sư Phước Định – Đạt Thiền (?-1911), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 38, trụ trì chùa Liên Trì (Tp. Cần Thơ), thị tịch, trụ thế 52 năm.

– Thiền sư Như Nhãn – Từ Phong (1864-1938) được tôn làm Pháp sư trường Hương ở chùa Giác Lâm tại xã Phú Thọ, huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn, Gia Định.

– Thanh Thái – Huệ Minh (1861-1940) được thỉnh làm trụ trì chùa Từ Hiếu ở xã Dương Xuân, huyện Hương Thủy, phủ Phú Xuân – Huế.

– Thiền sư Như Lý – Thiên Trường (1877-1969) khai trường Kỳ, mở an cư kiết hạ tại chùa Bửu Lâm ở thôn Phú Hội, huyện Kiến H a, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường (Mỹ Tho).

– Thiền sư Như Mật – Bửu Thọ (1893-1972) kế thế trụ trì chùa Tây An nay ở ngã ba núi Sam, phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.

– Thiền sư Huệ Duyệt – Chơn Cảnh (1863-1940) được công cử làm Tự Trưởng chùa Vĩnh An tại xã Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Đây là ngôi chùa do vua Minh Mạng lập để thờ Hiếu Chiêu Hoàng thái hậu.

– Tổ đình Chúc Thánh nay ở đường Hai Bà Trưng, TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam, được Thiền sư Ấn Bính – Phổ Bảo (1865-1914) đại trùng tu chánh điện, xây thêm Đông đường, Tây đường.

– Hòa thượng Ấn Lan – Từ Trí (1852-1921) kiến lập thiền đường Thiền Lưu Tôn Đường tại chùa Linh Ứng thuộc Ngũ Hành Sơn, huyện Hòa Vang, Quảng Nam và trùng tu tháp Thiền sư Bửu Đài, Tổ khai sơn.

– Chùa Phước Quang ở thôn Phước Long, xã Tư H a, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, được triều đình ban Sắc tứ. Chùa này do Thiền sư Chương Trang – Quảng Chấn (?-1898) khai sơn.

– Thiền sư Như Tiến – Quảng Hưng (1893-1946) được chư sơn thiền lữ cử làm trụ trì chùa Thạch Châu, xã Thạch Thang.

– Thiền sư Thanh Ninh – Tâm Tịnh (1868-1928) được sự trợ cấp của vua Duy Tân, ngài tạo tượng Phật A-di-đà tại chùa Thiếu Lâm nay thuộc Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế và đổi tên chùa này thành Tây  Thiên Phật Cung. Cũng năm này, Thiền sư được Bộ Lễ cử về trụ trì chùa Diệu Đế ở Phú Xuân – Huế.

– Thiền sư Trừng Diệu – Tịnh Hạnh (1865-1930) khai sơn chùa Thiền Lâm tại làng Phú Lâm, tổng Đức Thắng, Phan Thiết.

– Tổ đình Thiên Ấn tại xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi mở Đại giới đàn.

– Chùa Thạch Sơn thuộc xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi mở giới đàn xuất gia, do Hòa thượng Tăng cang Hoằng Tịnh (1862-1932) làm Hòa thượng Đàn đầu.

– Thiền sư Thanh Đức – Tâm Khoan (1874-1937) được Sơn môn suy cử làm trụ trì chùa Báo Quốc (Thuận Hóa – Huế), sau đó được bảo cử kiêm trụ trì chùa Thuyền Tôn (Thuận Hóa), chùa Kim Tiên (Thuận Hóa), chùa Quang Bảo.

– Thiền sư Trừng Huệ – Giác Viên (?-1942) dựng thảo am Thệ Đa Lâm tại làng Dương Xuân Thượng II, Thuận Hóa.

– Thiền sư Trừng Quảng – Pháp Lưu (1888-1952) khai sơn chùa Thiên Khánh hiện tọa lạc tại số 48, đường Lưu Văn Tế, phường 4, TP. Tân An, tỉnh Long An, do gia đình Phật tử Ngô Văn Trà và Nguyễn Thị Dần hiến cúng đất.

– Thiền sư Như Ấn – Thanh Đức (?-1930) đại trùng tu chùa Thạnh Hòa nay tại số 103, tỉnh lộ 19, ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Chùa làm lại bằng sườn gỗ, cột tr n theo kết cấu tứ trụ. Chùa này tiếp tục được trùng tu vào những năm : 1939, 1972, 1992.

– Sách Niệm Phật Vãng Sanh Nghi do Hòa thượng Thanh Ninh – Tâm Tịnh (1868-1928) trước tác, Thiền sư Viên Thành đề tựa, Quốc sư Huệ Pháp viết lời bạt, Thiền sư Thanh Thái – Phước Chỉ và Thiền sư Thanh Minh – Tâm Truyền hiệu đính, được khắc bản in. Mộc bản hiện lưu trữ tại chùa Từ Hiếu – Huế.

– Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được khắc bản in, Thiền sư Viên Thành (1879-1928) viết lời bạt. Mộc bản hiện tàng trữ tại chùa Ba La Mật – Huế.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.