Năm 1912 (Nhâm Tý – PL.2456), đời vua Duy Tân (Vĩnh San, 1907-1916)
– Ngày 07 tháng 2 năm Nhâm Tý, Hòa thượng Chơn Hiền – Mỹ Phụng (1831-1912), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, trụ trì chùa Phước Long (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch, thọ 82 tuổi.
– Ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tý, Hòa thượng Như Huy – Bửu Hóa (?-1912), thế danh Huỳnh Văn Bườn, húy Như Huy, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 41, trụ trì chùa Bửu Linh (Thủ Thừa – Long An), viên tịch.
– Ngày 14 tháng 5 năm Nhâm Tý, Hòa thượng Ấn Sự – Từ Lạc (1848-1912), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 39, trụ trì chùa Phước Tường (Lái Thiêu – Bình Dương), viên tịch, thọ 65 tuổi.
– Ngày 25 tháng 8 năm Nhâm Tý, Hòa thượng Ấn Hướng – Pháp Nhãn (1858-1912) thế danh Nguyễn Tấn Kỳ, pháp danh Ấn Hướng, tự Tổ Đồng, hiệu Pháp Nhãn, sinh tại thôn Châu Tử, xã Bình Nguyên, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 39, trụ trì am Phước Sơn (Quảng Ngãi), thị tịch, hưởng dương 55 tuổi.
– Tổ đình Giác Lâm ở Gia Định khai trường Hương, Thượng tọa Như Nhãn – Từ Phong (1864-1938) được thỉnh làm Pháp sư giảng dạy. Sau mùa an cư, ngài đặt bản đá in bộ Quy Nguyên Trực Chỉ do ngài diễn Nôm, Hòa thượng Hoằng Ân hiệu đính.
– Thiền sư Thanh Thái – Phước Chữ (1858-1940) được vua ban sắc trụ trì chùa Thánh Duyên ở núi Túy Vân, Thuận Hóa – Huế.
– Thiền sư Nguyên Đồ – Quảng Ân (1891-1974) được thỉnh về trụ trì chùa Linh Phước (chùa Phật Đá) ở thôn Bà Bèo (Tiền Giang).
– Hòa thượng Ấn Tham – Hoằng Phúc (1865?-1916) vận động trùng khắc bản kinh Kim Quang Minh.
– Hòa thượng Vạn Ân được cung thỉnh làm Yết Ma cho giới đàn tại chùa Mông Sơn, thị xã Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận.
– Thiền sư Như Huyền – Nghĩa Đạo (1877-1943) kế thế trụ trì chùa Phước Long nay tại phường Mỹ Chánh, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.