Năm 1913

Năm 1913 (Quý Sửu – PL.2457), đời vua Duy Tân (Vĩnh San, 1907-1916)

– Ngày 20 tháng 3 năm Quý Sửu, Hòa thượng Liễu Đoan – Tường Vân (1820-1913), pháp danh Liễu Đoan, thuộc thiền phái Lâm Tế chánh tông, đời thứ 37,  trụ trì chùa Liên Trì (Bình Thuận), viên tịch, thọ 93 tuổi.

– Ngày 08 tháng 4 năm Quý Sửu, Thiền sư Thị Thọ – Hành Giáo (1859-1929), được Hòa thượng Thanh Chánh – Phước Tường ấn chứng và truyền trao bảng Chánh Pháp Nhãn Tạng với bài kệ phú pháp :

“Phật tổ ân sâu, không quên pháp nhũ

Hộ trì Tam bảo Phật truyền diệu âm

Đời đời kiếp kiếp học như Phật tổ

Tôn trọng, vâng giữ hành trì như vậy” (LSTTTPLTCT).

– Ngày 24 tháng 5 năm Quý Sửu, Hòa thượng Tánh Minh – Trí Quang (1805-1913) thuộc Tông Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 39, trụ trì chùa Hội Phước (Khánh Hòa) viên tịch, thọ 109 tuổi.

– Thiền sư Giác Trang – Hải Tràng (1884-1972) về trụ trì Tổ đình Thanh Trước nay tại ấp G  Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

– Ngày 20 tháng 9 năm Quý Sửu, Hòa thượng Thanh Minh – Viên Tâm (1842-1913), thế danh Trương Văn Hiền, húy Thanh Minh, tự Hành Thiện, hiệu Viên Tâm, người xã Bình An, tỉnh Bình Thuận, thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 41, Tổ khai sơn chùa Linh Sơn Diên Thọ (Hố Dầu), viên tịch, thọ 72 tuổi.

– Ngày 13 tháng 12 năm Quý Sửu, Hòa thượng Quảng Hòa – Phước Tấn (1816-1913), thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 45, trụ trì chùa Đức Sơn (Thủ Dầu Một, Bình Dương), viên tịch, thọ 98 tuổi.

– Hòa thượng Tâm Minh – Như Thuật (1847-1913), thế danh Nguyễn Đức Tuyển, hiệu Tâm Minh, thuộc Thiền phái Lâm Tế, Tăng cang chùa Thiên Mụ (Phú Xuân – Huế), viên tịch, thọ 67 tuổi.

– Thiền sư Thanh Trí – Hải Luận (1858-1934) được cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ thuộc huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân – Huế và được cấp Độ điệp ngày 22 tháng 2 năm Quý Sửu.

– Thiền sư Minh Khiêm – Hoằng Ân (1850-1914) từ Châu Đốc trở về Mỹ Tho thăm chùa Bửu Lâm, rồi trụ tại am Viên Giác, sắp xếp nhập thất tham thiền.

– Hòa thượng Thanh Kế – Huệ Đăng (1873-1953) mở giới đàn tại chùa Phước Linh xã Tam Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, ngài được cung thỉnh làm Hòa thượng Đường đầu.

– Thiền sư Chơn Pháp – Phước Trí (1867-1932) chứng minh cho dân làng trùng tu chùa Mỹ Khê (Hòa Vang, Quảng Nam), do ngài trụ trì.

– Hòa thượng Ấn Tham – Hoằng Phúc (1865?-1916) được triều đình sắc phong Tăng cang, đồng thời được Cần Chánh Đại Học Sĩ Nguyễn Thân cung thỉnh làm trụ trì chùa Sắc tứ Thạch Sơn (làng Phú Thọ, Quảng Ngãi). Cũng năm này, Hòa thượng mở rộng già-lam Thiên Ấn (Quảng Ngãi) khắp quả núi Thiên Ấn, lập kế hoạch trùng tu lâu dài.

– Thiền sư Ấn Luân – Mỹ Hoán – Hoằng Hóa (?-1913) thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 39, trụ trì Tổ đình Thắng Quang (Hoài Nhơn, Bình Định), thị tịch.

– Thiền sư Chơn Điển – Khánh Trí (?-1921) kế thế trụ trì Tổ đình Thắng Quang tại thôn Hy Tường, xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

– Thiền sư Chơn Thanh – Từ Văn (1877-1931) được cung thỉnh làm Pháp sư cho trường Hương chùa Tam Bảo, nay thuộc phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

– Thiền sư Trừng Diệu – Tịnh Hạnh (1865-1930) cho khắc bản gỗ in quyển “Thích Song Tổ Ấn”.

– Thiền sư Trừng Trí (?-1938) mở giới đàn tại chùa Thiền Long (Phong Nẫm – Bình Thuận), cung thỉnh Hòa thượng Liễu Đoan – Tường Vân (1820-1913) làm Hòa thượng Đàn đầu. Trong số giới tử thọ giới tại đây có Thiền sư Phước Nhàn, sau này là một Danh Tăng của Phật giáo.

– Hòa thượng Tâm Hòa – Thông Quang (1853-1913), thuộc thiền phái Lâm Tế Chánh tông, đời thứ 41, trụ trì chùa Hưng Long (Phan Thiết), viên tịch, thọ 60 tuổi.

– Hòa thượng Thanh Chánh – Phước Tường được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho Trường Kỳ giới đàn tại chùa Kim Long thuộc xã Ninh Quang, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

– Tỳ-kheo ni Thanh Linh – Diên Trường (1863-1925) xây dựng chùa Trúc Lâm nay tọa lạc ở xã Thủy Xuân, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Sau khi làm xong, Tỳ-kheo ni đến chùa Thiếu Lâm xin với Hòa thượng Tâm Tịnh cho thỉnh Thiền sư Giác Tiên (1880-1936) về làm tọa chủ.

– Thiền sư Quảng Đống – Thiện Hồng (1891-1960) kế thế trụ trì chùa Đức Sơn tại làng Hiệp Thành, Thủ Dầu Một (Bình Dương).

– Hòa thượng Chánh Quả (1841-1913), thế danh Lê Thế Diên, sinh tại tổng Trung An, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhân (Bình Định), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 39, trụ trì chùa Linh Sơn (chùa Tiên Sơn, Hà Tiên – Kiên Giang), viên tịch, thọ 72 tuổi.

– Thiền sư Nguyên Can – Trí Ẩn (1878-?) kế thế trụ trì chùa Khánh Quới nay tại xã Tân Bình, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (1913-1927).

– Thiền sư Thanh Trí – Tuệ Giác (1858-1939) được triều đình cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ, hiện tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế (1913-1934).

– Thiền sư Ngộ Ý – Hoằng Đạo, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 39, kế thế trụ trì chùa Hội Long hiện tại số 314/36, đường Cách Mạng Tháng Tám, Tp. Cần Thơ (1914-1922). Ngài xây cất lại chùa này và đổi tên là Hội Linh Tự.

– Thiền sư Như Trí – Huệ Nhẫn (1858-1913), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 39, thị tịch, trụ thế 55 năm.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.