Năm 1917 (Đinh Tỵ – PL.2461), đời vua Khải Định (Bửu Đảo, 1916-1925).
– Ngày 27 tháng 2 năm Đinh Tỵ, Hòa thượng Huệ Chơn – Đạt Chiếu (1854-1917), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 38, trụ trì chùa Hưng Phước (Long An), viên tịch, thọ 64 tuổi.
– Ngày 27 tháng 11 năm Đinh Tỵ, Hòa thượng Thanh Cần – Quảng Diễn (1849-1917) thuộc thiền phái Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 41, trụ trì chùa Long Khánh (Qui Nhơn – Bình Định) viên tịch, thọ 69 tuổi.
– Thiền sư Nguyên Đồ – Quảng Ân (1891-1974) dời chùa Linh Phước (chùa Phật Đá) ở thôn Bà Bèo (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), đến khu đất hoang, cách nền chùa cũ khoảng 500 m. Ngài xây dựng chùa Phật Đá mới khang trang.
– Thiền sư Chơn Sử – Khánh Tín (1896-1992) được Hòa thượng Ấn Kim – Hoằng Tịnh cử làm trụ trì chùa Thọ Sơn ở núi Bà Nhưng, Quảng Ngãi.
– Thiền sư Chơn Phước – Huệ Pháp (1887-1975) được cung thỉnh làm Đệ nhất tôn chứng Giới đàn chùa Trường Giác tại huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cũng năm này, Thiền sư được hai Phật tử là Trừng Quế và Trừng Quy cúng dường cho một thảo am tại thôn Cẩm Thượng.
– Thiền sư Thanh Chánh – Phước Tường (1867-1932) kế thế trụ trì chùa Hội Phước nay thuộc phường Phương Sài, Tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
– Thiền sư Chơn Hương – Thiện Quang (1862-1939) kế thế trụ trì chùa Linh Sơn tại thôn Hiền Lương, xã Vạn Lương, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
– Tổ đình Thiên Ấn nay thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi khai giới đàn xuất gia, do Hòa thượng Chơn Trung – Diệu Quang (1891-1952) làm Hòa thượng Đàn đầu.
– Thiền sư Thiền sư Như Thông – Đắc Ân (1873-1935) được Bộ lễ bổ cử làm trụ trì chùa Linh Mụ tại kinh đô Huế.
– Thiền sư Tâm Trí – Nghiễm Nghiễm (1881-1933) trùng tu chùa Phúc Lâm (chùa Dư Hàng) nay ở số 121, đường Dư Hàng, khu Lê Chân, TP. Hải Ph ng, do ngài làm trụ trì.
– Thiền sư Như Quới – Pháp Ấn và bổn đạo địa phương sáng lập chùa Phong Linh hiện ở số 1/166, khu phố 3, đường Phong Phú, phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, Tp. HCM.