Năm 1922 (Nhâm Tuất – PL.2466), đời vua Khải Định (Bửu Đảo, 1916-1925).
– Ngày 16 tháng 1 năm Nhâm Tuất, Hòa thượng Như Hòa – Phước Hóa (1867-1922), thế danh Nguyễn Văn Hòa, húy Như Hòa, thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 39, Tổ sáng lập chùa Tân Sơn (Đức Hòa, Long An), viên tịch, trụ thế 55 năm.
– Ngày 16 tháng 5 năm Nhâm Tuất, Hòa thượng Hồng Nghề – Thiện Quảng (1867-1922), thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 40, Tổ khai sơn chùa Giác Thiện (Cần Giuộc, Long An), viên tịch, trụ thế 56 năm.
– Ngày 02 tháng 9 năm Nhâm Tuất, Thiền sư Tâm Khoản – Chân Từ (1886-1922) họ Đào, húy Tâm Khoản, tự Hào Quang, Tổ thứ 5 sơn môn Bà Đá (chùa Linh Quang, Hà Nội), thị tịch, hưởng dương 36 tuổi.
– Ngày 19 tháng 9 năm Nhâm Tuất, Thiền sư Chơn Quang – Hoằng Nhơn (?-1922), thế danh Đoàn Văn Nhơn, pháp danh Chơn Quang, tự Đạo Hiển, hiệu Hoằng Nhơn, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chúc Thánh, đời thứ 40, sinh tại làng Thanh Hà, Hội An, Quảng Nam, trụ trì Tổ đình Vạn Đức (Hội An, Quảng Nam), thị tịch.
– Ngày 28 tháng 11 năm Nhâm Tuất, Hòa thượng Hồng Kiềm – Chơn Quả (1868-1922), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 40, trụ trì chùa Núi Châu Thới (Thuận An, Bình Dương), viên tịch, trụ thế 55 năm.
– Thiền sư Hồng Hưng – Thạnh Đạo lập Giới đàn ở chùa Giác Lâm tại Gia Định, Hòa thượng Như Phòng – Hoằng Nghĩa (1867-1929) được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng; Hòa thượng Như Đắc – Từ Nhẫn được cung thỉnh làm Đệ nhất tôn chứng; Thiền sư Như Nhãn – Từ Phong được thỉnh làm Pháp sư.
– Thượng tọa Giác Trang – Hải Tràng (1884-1972) mở khóa Kiết hạ an cư tại Tổ đình Thanh Trước (Gò Công, Tiền Giang), cho khắc bản in kinh Pháp Hoa được 200 bộ. Cũng mùa an cư này, có tổ chức Đại giới đàn, chư tôn trưởng lão cung thỉnh ngài lên ngôi vị Đàn đầu Hòa thượng.
– Thượng tọa Ngộ Giác – Chánh Quả (1885-1956) được cung thỉnh giảng dạy Luật học cho tăng ni an cư tại trường Hương chùa Long Phước ở Vĩnh Long.
– Tổ đình Thiên Hòa ở thôn Tri Thiện, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, Bình Định bị hỏa hoạn thiêu rụi. Tổ đình này do Thiền sư Pháp Tịnh – Luật Phong – Viên Quang khai sơn vào cuối thế kỷ thứ XVIII.
– Thiền sư Huệ Duyệt – Chơn Cảnh (1863-1940) được triều đình cử làm trụ trì chùa Vĩnh An tại xã Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam.
– Hòa thượng Ngộ Thông được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Từ Nhẫn được thỉnh làm Đệ nhị Tôn chứng cho Trường Kỳ giới đàn chùa Châu Long thuộc làng An Bình Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho.
– Hòa thượng Hoằng Hóa được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn chùa Linh Sơn tại Hòn Chồng, thôn Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
– Thiền sư Ngộ Ý – Hoằng Đạo (1878-1922), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 39, trụ trì chùa Long Phước (Vĩnh Long), thị tịch, hưởng dương 45 tuổi.
– Thiền sư Hồng Tuấn – Chánh Đắc (1859-?), thuộc thiền phái Lâm Tế, đời thứ 40, khai sáng chùa Giác Nguyên nay tại số 089, ấp Tân Khánh, xã Tân Hiệp, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, trên khu đất do gia đình hiến cúng. Lúc đầu, chùa được xây dựng bằng vật liệu bán kiên cố sườn gỗ, cột tứ trụ, vách ván bổ kho, mái ngói âm dương.
– Thiền sư Nhật Tâm – Đồng Minh (1872-1936) kế thế trụ trì chùa Núi Châu Thới nay thuộc xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
– Hòa thượng Minh Khiêm (?-1922), thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 39, trụ trì Sùng Hưng Cổ tự (Phú Quốc, Kiên Giang), viên tịch, thọ 61 tuổi.
– Thiền sư Huệ Chánh (1909-?) kế thế trụ trì Sùng Hưng Cổ tự nay tại thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
– Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Tập Chú gồm 10 quyển, được Quốc sư Huệ Pháp (1871-1927) hưng công khắc bản in và đề tựa, Thiền sư Giác Tiên (1880-1936) và Thiền sư Tâm Quảng duyệt kiểm, Thiền sư Viên Thành (1879-1928) vẽ đồ hình. Mộc bản hiện tàng trữ tại chùa Diệu Đế ở Thuận Hóa – Huế (LQ. S6).
– Thiền sư Cao Minh sáng lập chùa Châu An hiện tại số 498/1/2, đường Lê Quang Định, phường 1, quận Gò Vấp, Tp. HCM.