Năm 1928

Năm 1928 (Mậu Thìn – PL.2472), đời vua Bảo Đại (Vĩnh Thụy, 1926-1945).

– Ngày 14 tháng 4 năm Mậu Thìn, Hòa thượng Chơn Sử – Khánh Tín (1896-1992) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn xuất gia chùa Thọ Sơn thuộc xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

– Ngày 25 tháng 4 (nhằm ngày 06 – 3 – Mậu Thìn), Hòa thượng Thanh Ninh – Tâm Tịnh (1868-1928) thế danh Nguyễn Hữu Vĩnh, húy Thanh Ninh, hiệu Tâm Tịnh, quê ở Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tông Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 41, Tăng cang chùa Diệu Đế, trụ trì chùa Tây Thiên (Huế), thị tịch, thọ 60 tuổi, 32 hạ lạp.

– Ngày 21 tháng 5 năm Mậu Thìn, Thiền sư Hồng Đồ – Thiện Hương (1882-1928) thuộc Tông Lâm Tế, đời thứ 40, trụ trì chùa Đại Giác (Biên Hòa – Đồng Nai), thị tịch, trụ thế 46 năm.

– Ngày 04 tháng 9 năm Mậu Thìn, Thiền sư Kiểu Thường – Linh Đức (?-1928), thuộc thiền phái Lâm Tế – Gia Phổ, đời thứ 40, trụ trì chùa Phước Lâm (Tân Uyên, Bình Dương), thị tịch.

– Ngày 28 tháng 12 năm Mậu Thìn, Thiền sư Phước Hóa (1876-1928), thế danh Huỳnh Văn Thạnh, thuộc thiền phái Lâm Tế – Chánh Tông, đời thứ 40, Tổ khai sáng chùa Thanh Hòa (Hà Tiên, Kiên Giang), thị tịch, trụ thế 52 năm.

– Hòa thượng Trừng Thông – Viên Thành (1879-1928) thế danh Công Tôn Hoài Trấp, pháp danh Viên Thành, húy Trừng Thông, sinh tại Kinh đô Huế, thuộc dòng thiền Lâm Tế – Liễu Quán, đời thứ 42, trụ trì chùa Tra Am (Hương Thủy – Thừa Thiên), thị tịch, hưởng dương 49 tuổi, 27 hạ lạp. Thi phẩm của ngài có Lược Ước Tùng Sao.

– Hòa thượng Thiện T ng (1891-1964) giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Sắc tứ Long Huê (Gò Vấp, Gia Định), trong mùa An cư kiết hạ năm này.

– Thiền sư Huyền Không (Hồng Nam – Hương Mãn) trùng tu chùa Quốc Ân ở ấp Phước Quả, làng Phú Xuân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế và dựng lại cổng tam quan.

– Thiền sư Thanh Đức – Tâm Khoan (1874-1937) kế thế trụ trì Tổ đình Thuyền Tôn ở núi Thiên Thai, thuộc làng An Cựu, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

– Thiền sư Huệ Duyệt – Chơn Cảnh (1863-1940) vâng lệnh Bộ lễ lập đàn cầu mưa tại chùa Vĩnh An (Duy Xuyên, Quảng Nam), vua Bảo Đại ngự giá đến lễ bái cầu nguyện.

– Hòa thượng Chơn Pháp – Phước Trí (1867-1932) khai giới đàn tại chùa Từ Vân (Đà Nẵng) và ngài được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu. Giới đàn đã cung thỉnh Hòa thượng Chơn Thông – Pháp Ngữ (chùa Từ Quang) và Hòa thượng Ấn Kim – Hoằng Tịnh  (chùa Phước Quang) làm Chứng minh đạo sư, Hòa thượng Chơn Chứng – Thiện Quả làm Đệ nhất tôn chứng, Hòa thượng Ấn Nghiêm – Phổ Thoại làm Đệ nhị tôn chứng, v Trừng Nhã – Giác Hải làm Đệ lục Tôn chứng, Hòa thượng Tôn Bảo làm Đệ tứ dẫn thỉnh, Hòa thượng Tôn Thắng làm Tri sự. Trong hàng giới tử đắc pháp tại giới đàn này có Thiền sư Trí Thủ, sau là một bậc Cao tăng trong thời hiện đại (LSTTTPLTCT, BNSGĐTVN).

– Thiền sư Chơn Cơ – Khánh Lâm (1891-?) kế thế trụ trì chùa Quang Lộc ở thôn Phước Long, xã Tư Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

– Đại đức Chơn Trung – Diệu Quang (1891-1952) được triều đình Sắc ban Tăng cang Tổ đình Thiên Ấn ở núi Thiên Ấn, nay ở xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

– Thiền sư Đạo Thông – Trí Thắng (1891-1975) mở lớp học nội điển tại Chùa Thiên Hưng nay thuộc TP. Phan Rang, Ninh Thuận.

– Thiền sư Chơn Trừng – Đạo Thanh (1895-1962) lập thảo am Pháp Hoa (sau này là chùa Pháp Hoa) tại ấp Đông Nhì, xã Phú Nhuận, tổng Tân Bình, tỉnh Gia Định.

Ni sư Trừng Ninh – Diệu Hương (1884-1971) về làm “Tự chủ” chùa Diệu Viên nay ở xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

– Chùa Tây Thiên tại Thuận Hóa – Huế dựng bia “Tây Thiên Tự Thanh Ninh Hữu Vĩnh Tâm Tịnh Hòa thượng tháp bi minh” do Mai Tu Tử Nguyễn Cao Tiêu soạn văn.

– Thiền sư Như Tiến – Quảng Hưng (1893-1946) mở trường Hương tại chùa Từ Vân (xã Thạch Giáng, Đà Nẵng) và thỉnh Hòa thượng Chơn Pháp – Phước Trí làm Đàn đầu Hòa thượng.

– Hòa thượng Nguyên Ngộ – Đạt Từ (?-1928), thuộc thiền phái Lâm Tế Chánh tông, đời thứ 42, trụ trì chùa Linh Thắng (Phan Thiết), viên tịch.

– Hòa thượng Ngộ Cảnh – Huệ Quang (1888-1956) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu, Hòa thượng Từ Nhẫn làm Yết Ma cho Trường Kỳ giới đàn chùa Hưng Long thuộc tỉnh Chợ Lớn.

– Hòa thượng Thanh Đức – Tâm Khoan (1874-1937) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu cho giới đàn xuất gia chùa Báo Quốc ở đồi Hàm Long, kinh đô Huế.

– Hòa thượng Hưng Thạnh (1894-1964) được triều đình – Đức Khôn Nghi Hoàng Thái hậu cử làm trụ trì chùa Phước Điền và ban Sắc tứ Phước Điền tự. Cũng năm này, Hòa thượng chú tạo tượng Tam thế Phật, đúc hồng chung.

– Chùa Phổ Minh tại làng Đức Phổ, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, được Hòa thượng Chánh Giáo – Hồng Tuyên  (1887-1968) trùng tu tôn tạo khang trang.

– Thiền sư Hồng Nhãn – Quảng Tường (1907-1945) thành lập chùa Long An nay tại TP. Tân An, tỉnh Long An, do Phật tử Cổ Thị Đỏ hiến cúng đất.

– Thiền sư Nhật Bình – Định An (?-1947) kế thế trụ trì chùa Phước Lâm nay tại thị trấn Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

– Thiền sư Minh Tịnh – Nhẫn Tế (1889-1951) khai sơn chùa Bửu Hương (sau đổi tên là chùa Tây Tạng) trên một ngọn đồi thấp thuộc phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

– Tâm Hiền – Từ Hiếu kế trụ trì chùa Quang Long nay tại làng Đại Tập, xã Ninh Thân, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa (1928-1967).

– Thiền sư Như Trí – Khánh Hòa (1877-1947) được cung thỉnh làm pháp sư giảng 3 tháng cho trường hạ tại Tổ đình Long Khánh ở Qui Nhơn, Bình Định.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.