Năm 454 – 455, sáu lá thư trao đổi giữa Lý Miễu (một sứ quân xưng vương ở Giao Châu) và hai vị thiền sư Đạo Cao và Pháp Minh (được ông coi là thầy) về vấn đề nếu Phật đầy quyền năng, tại sao không thấy Phật hiện ra ở đời ?.
Vào thời này ở Trung Quốc, sư Huệ Viễn thuộc phái Tịnh Độ ở Lô Sơn xướng lên thuyết “bất kỉnh vương” (tăng ni không cần làm lễ hay xưng mình là thần tử trước vua chúa).
Sáu lá thư nói trên là một khám phá vô cùng quan trọng của Lê Mạnh Thát, được ông dịch ra tiếng Việt trong LSPGVN tập 2, tr. 417- 431. Sáu lá thư này cung cấp những nét đậm về:
1-Về nghệ thuật : từ nửa đầu thế kỷ V, nghệ thuật chùa Tiên Sơn đã tượng trưng đức Phật qua hình ảnh hoa sen nằm giữa lá bồ đề.
2-Về âm nhạc: xác nhận sự hiện diện của “ca tán tụng vịnh”. Trên bệ đá chùa Tiên Sơn có khắc 10 vị nhạc thần chơi 9 nhạc cụ đàn dây hoặc ống. Trước đó trống đồng và khánh đá đã xuất hiện.
3-Về văn học: sáu lá thư là những tác phẩm văn học xưa nhất tại nước ta được phát hiện. Như vậy văn học nước ta phải khởi đầu ít ra là từ thời điểm này, không phải chỉ từ thế kỷ 10 như quan điểm đại đa số các nhà biên soạn văn học sử ở cả hai miền Nam Bắc.
4-Về lịch sử Phật giáo: lá thư thứ 4 của Đạo Cao mô tả Phật tử nước ta học ngồi thiền trong rừng, tu đức cạnh thành thị, cung kính chắp tay hay ca hát ngâm vịnh. Như vậy tu thiền và tu tịnh, tu phước và tu huệ đã xuất hiện đồng thời vào giai đoạn này.
5-Về lịch sử chính trị: Lý Miễu (được Đạo Cao và Pháp Minh gọi là sứ quân) là thái thú Giao Châu muốn trở thành tự trị. Sự liên hệ giữa ông và hai đại sư Đạo Cao, Pháp Minh giới thiệu khả năng vận động chính trị của các nhà sư Giao Châu trong giai đoạn nước ta bị đô hộ.
6-Về lịch sử tư tưởng: nêu vấn đề đâu là cơ sở cho giá trị lịch sử của những lời khẳng định trong kinh Phật, đồng thời xác định học thuyết Nho và Mặc đang tranh nhau nổi lên ở nước ta.
Vào thời này, Luy Lâu là một trung tâm hoằng pháp lớn, góp phần quan trọng vào việc phục hưng Phật Giáo tại Trung Quốc sau này.