Cầu Na Bạt Đà La

● (Gunabhadra, 394-468), dịch nghĩa là Công Đức Hiền, người Trung Thiên Trúc, thuộc dòng Bà La Môn, do đọc A Tỳ Đàm Tạp Tâm Luận có chỗ ngộ bèn quy hướng Phật pháp. Thoạt đầu, ngài học Tiểu Thừa, về sau thâm nhập Đại Thừa, người thời ấy xưng tụng Ngài bằng danh hiệu Ma Ha Diễn. Năm Nguyên Gia 12 (435) đời Lưu Tống, Sư đến Quảng Châu, trụ tại chùa Vân Phong trên núi Vân Phong. Thứ sử Quảng Châu tâu lên Tống Văn Đế. Vua sai người thỉnh Sư sang Nam Kinh, trụ tại chùa Kỳ Hoàn. Sư được danh sĩ và thiền đức đương thời hết sức kính ngưỡng, đặc biệt hai vị vương gia Nam Tiếu Vương Lưu Nghĩa Tuyên và Bành Thành Vương Lưu Nghĩa Khang cùng tôn Sư làm thầy. Ngài phiên dịch các bộ Tạp A Hàm Kinh, Đại Pháp Cổ Kinh, Tương Tục Giải Thoát Kinh, Thắng Man Kinh, Ương Quật Ma La Kinh, Lăng Già Kinh, Vô Ưu Vương Kinh, Bát Cát Tường Kinh, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh, Đại Phương Quảng Bảo Khiếp Kinh, Bồ Tát Hạnh Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh (cuốn này đã bị thất lạc), Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Thần Chú v.v… Do Dịch Kinh Lăng Già, ngài được coi là sáng tổ Lăng Già Tông, tổ Bồ Đề Đạt Ma là học trò của vị này. Lăng Già Tông còn gọi là Nam Thiên Trúc Nhất Thừa Tông, hoặc Nam Tông, là một tông phái Phật Giáo tại Trung Hoa chuyên nghiên cứu kinh Lăng Già. Tông này thuộc học phái chuyên nghiên cứu Như Lai Tạng trong Duy Thức, và thường được coi là tiền thân của Thiền Tông, chỉ thịnh hành ở phương Bắc Trung Hoa trong thời Nam Bắc Triều. Lăng Già Tông này chủ trương tu hạnh Đầu Đà, tu tập Thiền Quán. Sau này, giáo nghĩa của Lăng Già Tông bị thay thế bởi Thiền Tông do ngài Bồ Đề Đạt Ma đề xướng.

This entry was posted in . Bookmark the permalink.