● Tảo: quét; chửu: cây chổi. Kinh Pháp Cú chép: “Nước Xá Vệ, có thầy tỳ kheo tên là Bàn Ðặc. Sau khi xuất gia học hoài không thuộc vì quá ư ngu dốt, bởi tối dạ lắm! Ðến đỗi Phật giao cho năm trăm thánh A la Hán, luân phiên mỗi ngày hai vị để thay đổi dạy ông học một bài kệ rằng:
“Cần tảo già lam địa,
Thời thời phước huệ sanh,
Tuy vô tân khách chí,
Diệc hữu thánh nhơn hành”.
NGHĨA:
Siêng quét đất vườn chùa,
Mỗi giờ sanh phước huệ,
Dù không khách khứa đến,
Cũng có thánh nhơn đi.
Ðã 8 năm qua, mà ông học chưa thuộc! Anh của ông là Châu Lợi quở rằng: “Em không thể học thuộc được, tốt hơn là thôi! về tục làm cư sĩ cho xong!” Bàn Ðặc đến đứng dựa cửa Kỳ Hoàn mà khóc và than tiếc rằng: “Nếu hoàn tục thì làm sao hằng ngày được thấy đức Thế Tôn?” Phật thấy, ra hỏi: “Cớ gì thế?” “Năm trăm thánh tăng đã chán dạy vì con tối dạ, lại bị anh con đuổi hoàn tục, e không được thường thấy Phật nên con khóc!” “Thôi đừng khóc! Vào đây”. Phật nắm tay dắt về Tịnh Xá, bảo ở với Phật, Phật đưa cho một cây chổi và dạy cho học hai chữ: “Chổi quét”. Ông đọc được “chổi” lại quên chữ “quét”, mà hễ nhớ được chữ “quét” thì lại quên chữ “chổi”. Cứ như thế mãi, luôn đến mấy ngày. Ðến chừng xét biết ông sắp hết nghiệp chướng, Phật mới thừa dịp để khai thị rằng“Với 2 chữ ‘chổi quét’, nó có sự và lý thế nầy: Sự là cầm cây chổi vật hữu hình để quét sạch bụi bặm và rác rến nơi ngoài nhà là cư địa, đặng trông mát khỏe cho ta lẫn người. Lý là gìn cây chổi pháp vô hình để quét sạch bụi bặm là phiền não nơi trong nhà là tâm địa, đặng giữ thanh tịnh cho ta với người. Tóm lại, quét sạch cả bụi trần cấu uế trong thân tâm ta và chúng, chớ có gì lạ lùng đâu mà không nhớ?” Phật vừa dứt lời, ông liền sáng suốt, chứng quả La Hán, đủ 6 phép thần thông.
Bấy giờ, bên phái Lục Quần Bí Sô Ni có tịnh xá riêng, đã lạy Phật thỉnh giáo giới. Phật sắp đặt: mỗi ngày có một Bí Sô sớm mai đến giáo giới, rồi về Kỳ Hoàn. Ðến phiên ông Bàn Ðặc đi giáo giới, các Bí Sô Ni đều ngơ ngác mà hỏi với nhau: “Sư huynh ấy tối dốt tận mạng đi, mà nay đến huỷnh làm gì giáo giới được. Có lẽ huỷnh cậy sư huynh của huỷnh là huynh Câu Lợi thay thế cho, chớ huỷnh mà giáo giới gì?” Ðương còn dư luận, không dè ông đã reo gậy tích trước sân. “Ủa! Huỷnh đã tới! A ha! Huỷnh thiệt”, bà nào cũng xầm xì, mủm mỉm, có ý cười cợt bằng cách dễ ngươi. Nhưng, giới luật bắt buộc nên phải ra rước vào, làm lễ, dưng cơm, rồi hầu nghe thuyết pháp. Bà nào cũng lấy vạt áo cà sa che miệng và sụt sịt cười hoài nên chả dám để trống. Ngồi trên pháp tòa thầm nghĩ mình kém đức nên mới có cái cảnh ngộ nầy; ông bố cáo rằng: “Kính cùng các pháp tỷ; mặc dù tối dốt, chớ đệ đã học hiểu được vài nghĩa của hai chữ “chổi quét” mà Phật chứng truyền. Vậy các chị hãy để tâm yên lặng nghe đệ giảng coi có hợp pháp với chương trình giáo giới không? Thưa các đại tỷ! Người tu Phật, tùy mỗi trình độ mà học hỏi tu niệm có nhiều phương pháp, nhưng yếu điểm cũng không ngoài phủi giũ cho sạch bụi trần cũng như đào thải cho hết phiền não, nhứt là tảo thanh những chướng ngại vật là ngã mạn khinh ngạo để cho thân khẩu ý 3 nghiệp đều khiết bạch, 6 căn được thanh tịnh như gương lau sạch bụi. Cốt được như thế mới mong minh tâm kiến tánh, chứng quả vô lậu. Ấy là nghĩa của hai chữ “chổi quét” v.v… Vậy có thể nói với 8 vạn 4 nghìn pháp môn, cũng không ngoài ý nghĩa của 2 chữ “chổi quét” là vì quét sạch 8 vạn 4 nghìn bụi trần lao. Ðó các chị xét có phải thế không?” Tôn giả vừa hỏi rồi, các tỳ kheo ni đều giật mình, chứng ngộ quả A La Hán, sạch lòng khinh mạn, đủ niệm kính thành, khấp khởi hoan nghinh, ân cần bái tống. Bấy giờ vua Ba Tư Nặc thỉnh Phật và chúng tăng vào cung thụ trai, Phật đưa bình bát cho Bàn Ðặc bưng, bảo đi sau chót, Phật đi trước hết, kế 1 ngàn 2 trăm 50 Tỳ Kheo, lần lượt vào cửa thành. Sau rốt đến Bàn Ðặc bị quân lính gác cửa ngõ cản lại không cho vào và chỉ trích rằng: “Chúng tôi là cư sĩ không thể học được nhiều vì bận việc quân chánh, gia đình, nhưng cũng thuộc được một hai bổn để hôm sớm tụng niệm; còn huynh đã làm tỳ kheo, một bài kệ 20 chữ mà 3 năm rồi cũng học chưa thuộc! Thế có tài đức gì đâu hòng vào thụ của nhà vua cúng?”
Ðến giờ Phật lên trai đàn tưởng bình bát để cơm vào, ông ở ngoài ngọ môn dùng thần lực kéo dài cánh tay đưa bình bát đến ngay trước Phật; cả vua cùng bá quan lấy làm kinh ngạc! Vì chỉ thấy cánh tay quá dài mà không thấy người nào đâu cả? Phật phải giới thiệu để cho vua biết rằng: “Ðây là cánh tay của Bàn Ðặc đó, vì quân lính không cho La Hán ấy vào mà bình bát của ta giao cho ông ấy bưng, biết trong này tới giờ thụ trai nên dùng thần biến đưa bình bát vào”. Vua sai các quan vội ra rước vào… Cuộc trai phạn rồi, vua hỏi: “Ðức tôn giả đây vì sao tối dạ? Lại học cách nào được chứng quả như thế?” Phật dạy rằng: “Kiếp trước là người tu học thông lắm, chỉ vì muốn để một mình làm thầy quán chúng nên bỏn xẻn không bố thí pháp cho chúng, sợ chúng hơn mình. Bởi cái tội lẫn pháp đó, thành thử đời nầy mắc quả tối dốt. Nhưng nhờ có lòng ham tu và mến ta mà tội diệt phước sanh, chướng kia tỉa hết, huệ nọ sáng thêm, chỉ học 2 chữ mà chứng quả như thế”. Cả trai đàn đại hội vua quan ai nấy đều được nghe biết cái tội tiếc pháp như thế kia, và không dám (khinh người) như thế. Tiệc rồi bái tạ, đưa Phật, Tăng về. Tôn giả từ đây mới được chúng kính trọng.