● (Vidyā-rājñī): Minh (Vidyā) là một danh xưng khác của Đà La Ni. Do đà-la-ni có công năng diệt trừ tối tăm phiền não nên gọi là Minh (sáng). Do có công năng tăng trưởng hết thảy công đức nên gọi là Phi (Rājñī). Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 9, giảng: “Minh là đại huệ quang minh, Phi, tiếng Phạn là La Thệ (rājñī), là danh xưng giống cái của chữ Vương (Raja). Phi có nghĩa là Tam-muội, tức là Đại Bi Thai Tạng Tam-muội vậy”. Do Đà La Ni có công năng sanh trưởng hết thảy pháp công đức nên dùng Phi (nữ nhân) để biểu thị. Hơn nữa, trong Mật Giáo, trí huệ được coi là tĩnh, còn phương tiện là động, cho nên dùng nữ để biểu trưng trí huệ, nam biểu trưng phương tiện. Vì thế, mỗi một bài chú thường có minh vương và minh phi xuất hiện để biểu thị lực dụng trí và hạnh của chân tâm bổn giác cùng hành, cũng như biểu thị sự từ bi, nhu thuận cứu khổ của trí huệ.
Minh Phi
Bộ từ điển: Chú Thích Phật Học - Pháp Thí Hội