● Đôi khi còn được ghi là Yaśoda (do vậy, còn phiên âm là Gia Thâu Đa), dịch nghĩa là Danh Văn hoặc Thiện Xưng, người xứ Ba La Nại (Vārānasī), là con của trưởng giả Thiện Giác. Do chán nhàm thế tục, Ngài đến xin xuất gia với Phật, trở thành vị đại đệ tử thứ sáu (sau năm anh em ngài Kiều Trần Như). 49 người kia là bạn bè thân thiết của ngài Da Xá. Khi Ngài xuất gia, cha mẹ buồn phiền, yêu cầu các bạn bè hãy đến khuyên giải. Khuyên không được, họ bèn giả vờ xuất gia để tìm cách dụ Ngài hoàn tục, nhưng sau khi nghe Phật thuyết giảng, tất cả đều chứng Sơ Quả.
● (Pali: Yasa-Kakandakaputta): Vị thánh tăng ở miền Tây Ấn-độ vào thế kỉ thứ 3 tr. TL (tức 100 năm sau ngày Phật nhập diệt). Ngài thông suốt Ba Tạng, chứng quả A-la-hán, đủ sáu thần thông. Bấy giờ có nhóm tì kheo thuộc tộc Bạt-kì, trú tại thành Tì-xá-li (miền Đông Ấn-độ), đề xướng “mười việc hợp pháp” (thập sự tịnh pháp), cho áp dụng trong sinh hoạt tăng đoàn. Lúc đó, trưởng lão Da Xá từ miền Tây Ấn-độ du hành đến thành Tì-xá-li, thấy sự việc như vậy, bèn triệu tập 700 vị tì kheo, tụ hội tại Tì-xá-li, cử hành kết tập kinh điển lần thứ hai, để xét lại tất cả những điều liên quan đến giới luật do Phật chế. Kết quả, đại hội kết tập đã phủ quyết “mười việc” do nhóm tì kheo tộc Bạt-kì đề xướng – cho đó là “phi pháp” (thập sự phi pháp), chứ không phải “tịnh pháp”. Nhóm tì kheo tộc Bạt-kì không chấp nhận phán quyết đó, vì vậy, giáo đoàn đã phân rẽ thành hai phái Thượng Tọa bộ (bảo thủ) và Đại Chúng bộ (cấp tiến), đối lập và tranh chấp nhau. Phật giáo Nam-truyền coi tôn giả Da Xá là vị sáng tổ của Thượng Tọa bộ.