Nhục Chi

● (Kusana): Tên một quốc gia tồn tại vào đầu thế kỷ thứ ba trước CN đến thế kỷ thứ năm, nằm vào phía Tây Bắc Ấn Độ, thuộc lưu vực sông Hằng. Theo Hán sử, thoạt đầu tộc người Nhục Chi sống ở vùng Đông Bắc Trung Quốc thuộc khu vực Đôn Hoàng, Kỳ Liên sơn. Đầu đời Hán, do tránh nạn Hung Nô xâm lăng họ phải thiên di sang Tây, thôn tính các tộc người Saka, Ô Tôn, Đại Hạ (Bactria), chiếm cứ phía Bắc sông A Mẫu, tự xưng hiệu là Đại Nhục Chi, những người còn ở lại vùng Đôn Hoàng (nay thuộc vùng phụ cận thành phố Tây Ninh) tự xưng là Tiểu Nhục Chi. Vua Đại Nhục Chi đóng đô tại Lam Tử Thành phía Bắc A Phú Hãn (Afghanistan), giao cho năm vương hầu thuộc giống Đại Hạ cai quản vùng đất cũ. Mấy trăm năm sau, Quý Xương hầu là Khưu Tựu Khước (Kujura Kadphises) diệt bốn vương hầu kia, chiếm ngôi vua Đại Nhục Chi, đổi quốc hiệu là Quý Xương (Kushān), lại chinh phục An Tức (Parthia), thôn tính Kabul, tiêu diệt Kế Tân (Dardisthan), chiếm đóng vùng Ngũ Hà (Panjab) của Ấn Độ. Do vậy, sử gọi thời đại này là Quý Xương vương triều, nhưng người Hán vẫn gọi là Đại Nhục Chi. Con của Kujura là Wema Kadphises II lại chiếm lãnh Bắc Thiên Trúc, cử người làm giám quốc xứ Kiện Đà La. Vua Wema đặc biệt chú trọng phát triển giao dịch, giao thương cả với La Mã, cho đúc tiền bằng kim loại. Do giao thương với Tây Phương, ở Quý Xương hình thành nền nghệ thuật Phật giáo chịu ảnh hưởng Hy Lạp, thường gọi là nền mỹ thuật Kiện Đà La (Gandhara). Hậu duệ là vua Ka Nhị Sắc Ca (Kaniska) càng mở rộng lãnh thổ, đóng đô tại Purusapura, bảo hộ Phật giáo, kiến thiết chùa tháp. Vua lại còn nhóm họp năm trăm vị A La Hán tại nước Ca Thấp Di La để soạn bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận. Sự cống hiến của vua đối với Phật giáo chỉ kém vua A Dục. Các vị luận sư trứ danh như ngài Long Thọ, Mã Minh đều sống vào thời đại vua Ca Nhị Sắc Ca. Đại Nhục Chi nằm giữa Trung Ấn và Trung Hoa nên đóng vai trò môi giới đặc biệt giữa hai nền văn hóa. Các vị pháp sư đại đức nổi tiếng trong thời kỳ sơ khởi Phật giáo ở Trung Hoa đều là người Đại Nhục Chi như các vị Ca Diếp Ma Đằng, Chi Lâu Ca Sấm, Chi Diệu, Chi Cương Lương Tiếp… Các vị hoằng pháp nổi danh như Chi Lương, Chi Khiêm, Trúc Pháp Hộ, Chi Pháp Độ, Chi Đạo Căn, Chi Thi Luân đều có tổ tiên là người Đại Nhục Chi. Vào giai đoạn Trung Kỳ Phật giáo cũng có những vị pháp sư trứ danh xuất thân từ Đại Nhục Chi như Diệu Âm, Pháp Thắng, Đàm Ma Nan Đề, Phù Đà Bạt Ma, Di Đà Sơn, Đạt Ma Mạt Ma v.v…

This entry was posted in . Bookmark the permalink.