Vào vương triều Ung Chính đời nhà Thanh, Trương Đình Ngọc là Đại học sỹ kiêm nhiệm chức Quân cơ đại thần. Mặc dù địa vị cao nhưng ông rất khiêm cung, hiểu rõ đạo lý đối nhân xử thế. Ông yêu cầu con cái phải biết sống giản dị chất phác, bằng lòng với những gì mình có và coi trọng Đức hạnh.
Con cả của Trương Đình Ngọc là Trương Nhược Ải đã vượt qua được hai kỳ thi hương và kỳ thi hội để bước vào kỳ thi cuối tại Hoàng cung. Sau khi đội ngũ quan chủ khảo đọc bài luận của thí sinh cuối cùng, họ đóng dấu lên tên của các thí sinh trước khi trình Hoàng đế Ung Chính để Ngài đích thân thẩm duyệt và định đoạt.
Khi Hoàng đế Ung Chính đọc bài luận thứ 5, đọc đến câu “Thiện tắc tương khuyến, quá tắc tương quy, vô trá vô ngu, tất thành tất tín, tắc đồng quan nhất thể dã, nội ngoại diệc nhất thể dã” (Tạm dịch là: “Quan quân thấy gương việc thiện thì nên khuyến khích lẫn nhau, thấy lỗi lầm của người khác thì nên kỷ luật lẫn nhau để lần sau không tái phạm, nếu không ai gian trá không ai lầm lạc, thì mọi việc đều thành tâm, mọi chuyện đều đáng tin cậy, như thế quan lại cùng làm việc như một thể thống nhất, trong ngoài [kinh đô] đều làm việc như một thể thống nhất”). Nhà vua tinh thần phấn chấn, nhận thấy ngôn từ khẩn thiết thành tâm, “Có phong thái của các bậc đại thần thời cổ đại” (“Pha đắc cổ đại thần chi phong”), liền quyết định bài này đậu Nhất giáp xếp thứ 3, tức là Thám hoa. Sau Hoàng đế mở niêm phong của bài thi, mới biết người ấy là Trương Nhược Ải, con của Đại học sĩ Trương Đình Ngọc, liền lập tức phái người báo tin vui cho Trương Đình Ngọc.
Không ngờ Trương Đình Ngọc lập tức cầu kiến Hoàng đế, cho rằng mình thân là đại thần của triều đình, nhi tử còn trẻ, lại đậu thứ 3 Nhất giáp, thật là không thỏa đáng. Hoàng đế Ung Chính nói: “Trẫm thật sự chí công vô tư, không phải vì đó là con của đại thần mà có ý đề bạt”. Trương Đình Ngọc lại xin từ chối mà nói: “Thiên hạ lắm người có tài, 3 năm mới có một kỳ thi, mỗi người đều mong có tên trong Nhất giáp. Bản thân thần hiện nay có địa vị cao, con của thần lại đứng thứ 3 Nhất giáp, chiếm chỗ của các hàn sỹ trong thiên hạ, trong tâm thật sự bất an. Xin liệt nó vào Nhị giáp, như vậy đã vinh hạnh rồi”.
Chế độ khoa cử thời nhà Thanh thì kỳ thi cuối tổ chức tại Hoàng cung, thi đậu có 9 người, xếp vào 3 giáp Tiến sỹ, mỗi giáp 3 người. Nhất giáp gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, gọi là Tiến sỹ cập đệ. Nhị giáp gọi là Tiến sỹ xuất thân. Tam giáp gọi là Đồng tiến sỹ xuất thân. Dù cả 3 giáp đều có thể gọi chung là Tiến sỹ cả, nhưng đãi ngộ dành cho mỗi giáp không hề tương đồng chút nào. Người đậu Nhất giáp có thể lập tức nhậm chức quan, có thể làm việc trong Hàn Lâm Viện, tương lai dễ bề thăng tiến lên cao. Những người đậu Nhị giáp Tam giáp không thể lập tức thụ quan mà phải chờ vài ba năm, và thường bắt đầu từ các chức quan tại Phủ huyện mà thôi.
Trương Đình Ngọc hiểu rõ quy tắc này, nhưng ông cho rằng con trai còn trẻ, không thể ở tại vị thế quá thuận lợi danh tiếng quá lớn địa vị quá cao trong khi còn quá nhỏ tuổi, sẽ là lợi bất cập hại. Bảo toàn phúc đức thì mới tiến bước vững vàng.
Lúc đầu Hoàng đế Ung Chính tưởng Trương Đình Ngọc đơn giản chỉ muốn khiêm nhường, nên nói với ông rằng: “Nhà khanh tận trung tích Đức, có được người con ưu tú, đỗ vào Nhất giáp, mọi người đều phục, không cần phải thẹn”. Trương Đình Ngọc đang được cho ngồi nói chuyện, thấy Hoàng đế không muốn tiếp thụ khẩn cầu của mình, liền quỳ xuống trước mặt Hoàng đế, tâu : “Hoàng thượng chí công. Nhưng nhà thần đã được thụ hưởng nhiều vinh hoa ân điển, xin hoàng thượng soi xét cho lòng thành của thần, nguyện ý nhường lại một suất vinh danh Nhất giáp mà cấp cho hàn sỹ trong thiên hạ. Nếu hoàng thượng muốn khai ân mà bảo hộ cho thần, xin cho nhà thần lưu lại một chút phúc phận, để dành tương lai về sau, sự việc sẽ tốt đẹp hơn”. Ung Chính Hoàng đế thấy Trương Đình Ngọc tha thiết như vậy, không thể không theo thỉnh cầu ấy, cuối cùng sửa lại Trương Nhược Ải thành đứng đầu Nhị giáp. Không lâu sau đó, tại chỗ trương bảng khoa danh, Hoàng đế cũng vì việc đó mà ban chỉ biểu dương đức tính khiêm nhường của Trương Đình Ngọc, để cho thiên hạ cùng đọc mà biết được câu chuyện ở trên.
Trương Nhược Ải hết sức thông cảm chân ý của phụ thân, không phụ lòng hy vọng to lớn của cha, không ngừng rèn luyện, sở học không ngừng tiến những bước dài. Sau này dù tại Nam thư phòng, hay là Quân cơ đại thần, ông luôn luôn tận lực làm tròn trách nhiệm, hơn nữa lại cung kính khiêm nhường, rất có phong thái như cha mình.
Lời bàn:
“Hữu quyền bất khả sử tẫn, hữu phúc bất khả hưởng tẫn” “Trung hậu truyện gia cửu, khiêm thận kế thế trường”. (Tạm dịch nghĩa: “Có quyền không được dùng hết, có phúc không được hưởng hết”, “Trung hậu truyền đời thì gia đình được vững bền, khiêm cung thận trọng thì phúc thọ được dài lâu”). Đó đều là những lời vàng ý ngọc trong đạo lý đối nhân xử thế, cũng là quy phạm dạy con hết sức trọng yếu. Hai cha con Trương Đình Ngọc đều hiểu được đạo lý này. Họ là những người thật sự chân thành, cũng là những người thật sự thông minh