Sư quê ở Thường Sơn, họ Vệ, theo Nho giáo. Năm mười một tuổi xuất gia với Phật Đồ Trừng, Sư đọc sách một ngày cả vạn lời, biện tài vô địch. Sư thông minh như thế nhưng dung mạo quá xấu. Người đời gọi là “Tất đạo nhân, kinh tứ lân” (Đạo nhân đen thui, làm kinh hãi bốn bên).
Khi Phật Đồ Trừng thị tịch, Sư thống lãnh đồ chúng ở núi Lục Hồn. Niên hiệu Ninh Khang nguyên niên (373), Sư đến Nhượng Dương lập chùa Đàn Khê, có cao sĩ Tập Tạc Xỉ đến tự xưng: “Tứ Hải Tập Tạc Xỉ”, Sư ứng tiếng đáp: “Di thiên Thích Đạo An”.
Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ tư (379), vua Tần Phù Kiên công phạt Nhượng Dương, rước được Ngài rất mừng, bảo tả hữu rằng:
– Ta dùng mười vạn binh lấy Nhượng Dương, vừa được một người rưỡi.
Tả hữu hỏi:
– Là ai?
Đáp:
– An Công là một, Tạp Tạc Xỉ là nửa người.
Sư ở Trường An hoằng dương chánh pháp. Niên hiệu Thái Nguyên thứ mười bốn (389), vào ngày 27 thánh giêng, Sư thấy có một dị tăng ra vào ở lỗ hổng cửa sổ. Sư hỏi quê quán, dị tăng lấy tay chỉ hướng Tây Bắc, tức thì mây vẹt ra, thấy lầu các như huyễn hiện lên, Tăng bảo:
– Đó là cõi trời Đâu Suất.
Ngày tám tháng hai, Sư ngồi kiết già thị tịch.
Sư mỗi lần sớ kinh nghĩa đều cầu Thánh nhân chứng minh. Một lần cảm được tôn giả Trường Mi giáng. Sư đưa bản sớ giải của mình cho Tôn giả xem. Tôn giả rất thán phục, khen là hợp hết tâm Phật, rồi hứa sẽ ngầm giúp Sư truyền bá rộng rãi. Sư biết Tôn giả này chính là ngài Tân Đầu Lô, bèn thiết trai cúng dường. Sư có mười đệ tử thông đạt sự nghiệp sớ giải này.
Một đệ tử Sư là Pháp Ngộ truyền pháp ở Trường Sa, đồ chúng mấy trăm người. Một hôm có người lén uống rượu, Pháp Ngộ làm ngơ không cử tội. Sư biết được, bèn gởi roi đến. Pháp Ngộ ôm roi khóc nói:
– Trông coi chúng không công minh, khiến Thầy ở xa phải lo.
Trên cánh tay Sư có một lõi thịt, nổi lên như cái ấn, có thể nhấn lên nhấn xuống mà không ra khỏi bắp tay. Người đời gọi Sư là Bồ tát Ấn Thủ.
Sư có đệ tử là ngài Huệ Viễn, Tổ Sư tông Tịnh Độ, lập Liên Xã để niệm Phật cầu vãng sanh.
Nguồn:thuvienhoasen.org