Sự tích giới luật – Tám Pháp Ba La Di ( Phần 1 )

Tóm tắt

1. Làm hạnh bất tịnh
2. Lấy của không cho
3. Sát sinh đủ cách
4. Dối nói đắc đạo
5. Nhiễm tâm xoa chạm
6. Nhiễm tâm tám sự
7. Che giấu tội trọng
8. Theo người bị cử.

  1. LÀM HẠNH BẤT TỊNH:

Lúc Phật ở Xá vệ, có ngài Tu đề na (Sudina) làm hạnh bất tịnh với vợ cũ. Nguyên Tuđề na con nhà giàu, đã có vợ, nghe Phật thuyết pháp bèn năn nỉ cha mẹ bất đắc dĩ phải để cho ông đi tu. Không bao lâu, gặp mùa đói kém Phật cho phép chúng t kheo tản mác đi khất thực các nơi. Tu đề na dẫn một đoàn tăng chúng về thôn nhà khất thực. Cha mẹ nhân cơ hội ấy năn nỉ Tu đề na hoàn tục, Tu đề na không chịu; cha mẹ lại năn nỉ Tu đề na ở lại với vợ cũ một đêm để ông bà có cháu bế cho vui cửa vui nhà, hơn nữa khi chết còn có người cúng cơm, thờ tự. Tu đề na cuối cùng phải xiêu theo. Nhưng khi trở lại trong tăng chúng, ông cảm thấy bứt rứt, hối hận, khổ sở. Các t kheo bạn tới hỏi thăm, ông nói thật, và cùng đi đến Phật kể rõ sự tình. Phật quở trách đủ thứ và dạy đó là việc không đáng làm, phi phạm hạnh. Nhân đấy Phật chế giới.

Lời bàn:

Tội ba la di còn dịch là: “tha thắng”, là để cho cái khuynh hướng khác, không phải mình (tự) thắng lướt, làm cho mình không còn là mình nữa. Chính đây là nguồn gốc của mọi pháp tu và giới luât Phật chế: khiến cho con người đừng đi lạc xa cái “tánh thường” của mình, nếu lỡ đi xa một chút thì phải nhớ mà quay trở lại. Khi Phật chưa chế giới thì chưa gọi là “phạm”, thế nhưng sau khi Tu đề na làm hạnh bất tịnh thì tự thấy hổ thẹn khổ sở. Điều đó chứng tỏ tánh thường của chúng ta vốn tự thanh tịnh, không xen lẫn dâm dục, nên khi làm cái sự gì khác (tha) với tánh thường ấy, thì tâm tự thấy khó chịu.

  1. LẤY CỦA KHÔNG CHO:

Phật ở Xá vệ, Tỳ kheo Đàn ni ca (Dhanya) con nhà thợ gốm phạm trước tiên. Ông làm một chòi lá trong rừng để ở, một hôm đi khất thực về thấy chòi đã bị những người kiếm củi và chăn trâu phá hết vách mái. Ba lần như vậy, nhớ nghề cũ, ông bèn ra tay nung đất làm gạch xây một cái nhà có mái đỏ chói. Một hôm Phật và chúng tăng đi qua trông thấy, biết của t kheo xây, Phật bèn sai Anan tới phá, rồi cấm đệ tử không được tự tay đào đất, nung ngói gạch xây nhà, vừa mất thì giờ hành đạo vừa tổn hại chúng sinh. Đàn ni ca khi trở về thấy ngôi nhà ngói cũng bị phá, hỏi ra biết được là do lệnh Phật, ông bèn vào rừng tìm cây để làm nhà gỗ. Quan giữ rừng không cho, nhưng Đàn ni ca bảo, vua đã cho tôi rồi. Quan nói nếu vua đã cho thì xin đại đức cứ tự tiện mà chặt đốn. Đàn ni ca đốn hết những cây gỗ quý lâu năm. Khi ngự giá qua rừng, trông thấy cây cối ngã nghiêng, những cây gỗ quý dành để tu bổ cung đình đã biến mất, vua cho đòi quan giữ rừng đến hỏi. Quan tâu, vì thấy vua một Phật, mà có vị t kheo bảo vua đã cho chặt, nên ông đã để cho vị ấy chặt cây. Nhà vua tức giận cực điểm, cho là quan nói láo, sai bắt nhốt vào cũi giải về cung trị tội. Giữa đường gặp Đàn ni ca, ông ta kêu khóc ầm ĩ. T kheo bảo không sao, để tôi tới bảo cho vua nhớ, rồi vua sẽ thả ông về. T kheo đến thẳng cung vua, nói: “Vua không nhớ sao, ngày làm lễ đăng quan, vua có đọc bài diễn văn hứa khi lên ngôi, vua sẽ cho phép các vị xuất gia tự do hành đạo và xử dụng tất cả những vật cần dùng hiện có trong nước. Bởi thế mà tôi đốn những cây gỗ tôi cần để làm nhà”. Vua ngao ngán. Căn cứ theo luật pháp, tội t kheo ấy đáng bị xử tử nhưng vì tôn kính đức Phật, nên vua chỉ mắng cho một trận là “kẻ giặc, kẻ ngu si không biết gì cả, hãy đi đi cho khuất” và đuổi t kheo về.

Nguồn:budsas.org