Hồi Hướng Công Đức

Có một lần nghe pháp thoại, vị pháp sư giảng về phương thức bố thí, nhấn mạnh đến pháp tùy hỷ thí, tức là sự ca ngợi, vui vẻ, hân hoan với hành động bố thí của người khác. Đặc biệt là nếu thực tập được hạnh tùy hỷ thí này thì dù mình không cần bỏ ra bất cứ tài vật gì mà phước đức của mình lại bằng với người bố thí kia.

Một người nông dân nhờ một vị Tăng tụng kinh cho vợ anh ta vừa mất. Sau thời kinh, anh hỏi:

– Ngài có tin rằng vợ tôi hưởng được phước đức của thời kinh không?

– Chẳng những chỉ vợ của gia chủ mà tất cả chúng sinh đều được hưởng. Vị Tăng trả lời.

– Nếu ngài bảo mọi chúng sinh đều được phước, vậy thì họ sẽ giành hết vì vợ tôi rất yếu đuối. Xin ngài chỉ tụng kinh cho vợ tôi thôi.

Vị Tăng giải thích rằng hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh thì phước đức của mình tăng lên đến vô lượng.

Người nông dân kết luận:

– Ðó là một giáo lý cao thượng, nhưng xin ngài dành cho một ngoại lệ. Có tên láng giềng thô bạo hằng xử tệ với tôi. Xin ngài loại nó ra khỏi cái thành phần chúng sinh kia nhé.(Theo 101 câu chuyện thiền)

—o0o—

Bài Học Đạo Lý

Có một lần nghe pháp thoại, vị pháp sư giảng về phương thức bố thí, nhấn mạnh đến pháp tùy hỷ thí, tức là sự ca ngợi, vui vẻ, hân hoan với hành động bố thí của người khác. Đặc biệt là nếu thực tập được hạnh tùy hỷ thí này thì dù mình không cần bỏ ra bất cứ tài vật gì mà phước đức của mình lại bằng với người bố thí kia. Nghe lạ quá, mà cũng dễ thực hành quá vì đâu cần làm gì tốn kém hay vất vả, chỉ cần ca ngợi và vui vẻ với hạnh bố thí của người khác là được. Nhưng thực tế thì không giản đơn như vậy, vì đối với hầu hết chúng ta khi thấy người khác làm được nhiều việc tốt, tự nhiên mình lại thấy lòng đố kỵ không vui.

Vì sao ta lại không vui với việc tốt của người khác, phải chăng đó là biểu hiện của chấp ngã, phản ứng của cái tôi ích k, hẹp hòi? Cũng như khi ta làm phước thì chắc chắn được phước. Đúng ra, nếu ta biết hồi hướng phước báo ấy cho tất cả mọi người, nguyện đem tất cả phước đức có được chan rải đến mười phương chúng sinh để hết thảy cùng hưởng, thì phước đức của ta được nhân lên gấp ngàn vạn lần, có thể nói là đến vô lượng. Nhưng mà nghĩ đến việc những người khác không làm gì cả mà lại hưởng phước của mình thì thật khó chịu. Đó là chưa kể đến trường hợp trong tập thể chúng sinh ấy có không ít người mà ta đã nguyện “không đội trời chung”, thì việc hồi hướng phước báo cho hắn là điều không thể chấp nhận được.

Như người nông dân trong câu chuyện, vẫn biết hồi hướng công đức cho chúng sinh là tốt, nhưng vẫn khẩn khoản xin vị Tăng một ngoại lệ là loại tên hàng xóm thù nghịch ra khỏi danh sách chúng sinh được hồi hướng. Điều đó cho thấy khó có thể sẻ chia hoặc làm bất cứ điều gì tốt đẹp hay lợi ích cho người mà ta đã có nội kết thù oán, dù chỉtâm nguyện. Vì chỉ cần nhớ nghĩ đến người ấy, ta đã thấy căm ghét rồi thì làm sao mà “cho” được. Trong khi ta “cho” người cốt để cho mình mà còn chưa làm được thì khó thể cho đi một cách vô tư (ba la mật). Thế mới biết chấp ngã rất sâu nặng và gây khổ đau cho chúng sinh biết dường nào.

BẠCH VÂN