Hỏi: Đã chuyên niệm Phật A-di-đà, nhất định vãng sinh Tịnh độ, nhất định được vô lượng công đức. Nhưng chưa rõ có gì bảo chứng lòng tin ?
Đáp: Có bảo chứng rất lớn !
Theo kinh A Di Đà , chư Phật trong sáu phương nhiều như số cát sông Hằng, hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp ba ngàn Đại thiên thế giới, nói lời thành thật chẳng dối gạt chúng sinh.
Nên tin đây là lời nói của Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni, niệm Phật nhất định được vô lượng công đức, một ngày đến bảy ngày xưng niệm Phật A Di Đà nhất định vãng sinh Tịnh độ. Y theo lời dạy này không được vãng sinh Tịnh độ thì chư Phật trở thành người dối gạt ông, tướng lưỡi rộng dài kia vì nói lời này sẽ bị tan hoại, không đưa trở vào miệng được nữa.
Đây là chỗ chư Phật trong sáu phương dùng nguyện để bảo chứng.
Lại theo kinh Đại Bảo Tích, Phật A Di Đà lúc làm Tỳ-kheo Pháp Tạng, phát 48 thệ nguyện rộng lớn. Trong những nguyện ấy nói: «Nếu khi tôi được thành Phật :
Trời người trong mười phương, nghe danh hiệu tôi, không được Vô sinh Pháp nhẫn, các Pháp Tổng trì của Bồ-tát, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Người sinh về cõi nước tôi, không được ba mươi hai tướng tốt, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Người thành tựu mười niệm mà không sinh về cõi nước tôi, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Nếu người sinh trong cõi nuớc tôi, còn đọa lại ba đường ác, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Người sinh về cõi nước tôi, dung mạo không bình đẳng, có sự tốt xấu, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Người sinh về cõi nước tôi, không được Thiên nhãn, lục thông tự tại, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Chúng sinh trong mười phương xưng danh hiệu tôi, không được chư Phật trong mười phương khen ngợi, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Nếu người nữ chán ghét thân nữ, cầu sinh về cõi nước tôi, lúc sắp mạng chung không chuyển thân nữ thành nam tử mà thọ thân nữ, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Đức Phật nói Chánh Giác cũng là chỉ rõ Bồ-đề. Nếu tất cả chúng sinh nương vào nguyện lực của Phật, không được quả báo như trên, thì Phật không chứng Vô thượng Bồ-đề. Như thế tức dối gạt các chúng sinh, Ngài thệ ở trong đường ác chẳng được vô thượng Bồ-đề.
Đây là hai chỗ lập thệ nguyện của Phật A Di Đà.
Kinh A-di-đà lại nói : « Lúc nói kinh này, Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp ». Phật A Di Đà đã thành Phật, thì niệm Phật nhất định được vãng sinh.
Lại, đức Bổn sư Thích-ca nói : « Chuyên niệm danh hiệu Phật cũng là việc khó, ta thực hành pháp niệm Phật này được đạo Giác ngộ Vô thuợng ».
Ý nghĩa của việc nói kinh A Di Đà là sự phát nguyện trong lúc tu nhân của Bổn sư Thích-ca. Thế nên, trong kinh Pháp Hoa nói :
« Ta vốn lập thệ nguyện
Muốn khiến tất cả chúng
Bằng như ta không khác
Như xưa ta phát nguyện
Nay đã được đầy đủ
Dạy tất cả chúng sinh
Đều khiến vào Phật đạo ».
Đây là chỗ lập thệ nguyện của Phật Thích-ca.
Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa nói :
« Thệ rộng như biển,
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu như nghìn ức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn ».
Đây là chỗ phát nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Xà Lê Thiện Đạo ở chùa Tây Kinh cùng Pháp sư Kim Cang so sánh sự hơn kém của pháp niệm Phật. Ngài Thiện Đạo lên tòa cao liền phát nguyện rằng : « Theo trong các kinh, đức Thệ Tôn nói một pháp niệm Phật được sinh Tịnh độ. Một ngày đến bảy ngày, một niệm đến mười niệm danh hiệu Phât A Di Đà, nhất định vãng sinh Tịnh độ.
Đây là lời chân thật không dối gạt chúng gạt chúng sinh, xin khiến cho hai tượng trong chùa này lập tức đều phóng quang.
Nếu pháp niệm Phật là hư dối, không được vãng sinh Tịnh độ, lừa gạt chúng sinh, xin khiến cho Thiện Đạo ở trên tòa cao này đọa ngay vào đại địa ngục, chịu khổ lâu dài mãi không có ngày ra khỏi ».
Ngài Thiện Đạo liền lấy gậy Như Ý chỉ vào tượng, tượng liền phóng quang.
Đây là chỗ lập thệ nguyện của Xà-Lê Thiện Đạo.
Hòa thưọng Đại Hạnh nói : « Nếu người có thể y theo kinh A Di Đà mà niệm Phật, không chấp tướng mạo, tâm chỉ tin Phật, miệng chỉ niệm Phật, thân chỉ kính Phật, có thể nhẫn chịu những điều nghịch ý, ăn cơm đạm bạc, mặc áo thô xấu, hiếu nghĩa nhân từ, chuyên tâm niệm Phật, gặp nghịch duyên chẳng thối lui, đến chết không dời đổi, những việc lành xen tạp và những điều ác cũng không làm, chỉ chuyên niệm Phật.
Nếu người được như thế, Đại Hạnh này lóc da làm y phục, cắt thịt cho họ ăn.
Nếu y theo kinh, niệm Phật không vãng sinh Tịnh độ, niệm một câu Phật không diệt trừ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp, không được công đức vi diệu trong tám mươi ức kiếp, không lóc da cho mặc, không cắt thịt cho ăn, dối gạt chúng sinh, xin khiến cho Đại Hạnh này lập tức bị quả báo, sáu căn tan hoại, toàn thân sinh ghẻ lở, khổ đau khó chịu, khiến cho mọi người đều thấy, về sau vào thẳng nơi địa ngục, không thoát ra được nữa ».
Đây là chỗ lập thệ nguyện của Hòa thượng Đại Hạnh.
Vả lại, thệ nguyện ví như chiếc xe quý báu. Có những chiếc xe chuyên chở nhiều vật báu, định đi đến chỗ quốc vương để mong cầu quan chức. Xe chở vật báu cần phải ràng buộc chắc chắn, như thế đến kinh thành mới không bị nghiêng đổ, không mất vật báu. Nhà vua được báu, liền cho quan chức.
Niệm Phật cũng như thế, cần phải thệ nguyện thực hành mới được thành tựu, chẳng mất vật báu công đức niệm Phật, cho đến vãng sinh Tịnh độ, sớm chứng ngộ Bồ-đề.
Nếu trong sự tu hành chẳng lập thệ nguyện thì không do đâu thành tựu được hạnh, nên kinh Di Đà nói : « Nếu có người tin, phải nên phát nguyện sinh về cõi nước kia ».