Thuở xưa, có một Tỷ kheo bị tẩm xuất, ảo não buồn rầu, vừa đi vừa than khóc. Dọc đường, Tỷ kheo ấy gặp một con quỷ vốn phạm pháp cũng bị Tỳ Sa Môn Thiên vương tẩn xuất. Quỷ hỏi vị Tỷ kheo:
Vì sao ngài buồn rầu than khóc?
Tôi vì phạm tội, bị chúng Tăng tẩn xuất, từ đây mất hết sự cúng dường của tín thí, tiếng xấu đồn khắp gần xa nên rất đau khổ, buồn rầu.
Tôi có thể làm cho ngài tiếng xấu tiêu tan và được cúng dường nhiều hơn trước. Ngài đứng trên vai của tôi, tôi đội ngài đi giữa hư không, người ta chỉ thấy ngài mà không thấy tôi, và như thế ngài trở nên thần thông quảng đại. Nếu được cúng dường nhiều, ngài phải chia lại cho tôi.
Vị Tỷ kheo kia đồng ý. Tức thời, quỷ mang vị Tỷ kheo đi trên hư không đến nơi trước đây bị tẩn xuất. Bấy giờ, mọi người trong vùng ấy trông thấy đều kinh ngạc, cho rằng Tỷ kheo ấy đã đắc đạo, chứng thần thông, trở lại trách “chúng Tăng vô cớ, tẩn xuất oan uổng một vị tu hành chân chính”.
Họ cùng nhau đưa vị Tỷ kheo trở lại chùa, cúng dường hậu hĩ. Vị Tỷ kheo thọ lãnh áo cơm, tài vật cúng dường đều phải chia sớt cho quỷ dữ, không dám làm trái lời cam kết trước đây.
Rồi một ngày kia, khi đang cõng vị Tỷ kheo du hành trong hư không, tình cờ gặp tuỳ tùng của Tỳ Sa Môn Thiên vương, quỷ kinh hoàng quăng vị Tỷ kheo, chạy trốn thục mạng. Bị quăng xuống đất, vị Tỷ kheo thân hình tan nát, chết ngay.
(Theo Truyện cổ Phật giáo, tập 2, NXB TP.HCM)
—o0o—
Bài Học Đạo Lý
Chuyện một ác Tỷ kheo liên minh với ma quỷ, cầu danh vọng, cung kính, lợi dưỡng xem ra cũng khá thú vị và có nhiều điểm đáng bàn. Thực ra thì việc ấy cũng không lạ, vì ngay từ thời Thế Tôn còn tại thế, thời Chánh pháp, đã xảy ra. Đề Bà Đạt Đa vì không kiềm được tâm tham cầu hư danh giáo chủ đã liên minh với hôn quân A Xà Thế (giết cha để soán đoạt ngai vàng), hại Phật, chia rẽ Tăng đoàn. Đề Bà Đạt Đa nghĩ rằng, với sự hỗ trợ của quyền lực tối cao là nhà vua, thì mọi chuyện sẽ vận hành theo ý đồ đen tối của mình nhưng tất cả đều ngược lại, Đề Bà Đạt Đa đã chết thảm, bị chôn vùi bởi một cơn cuồng nộ địa chấn. Chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà.
Có lẽ mọi thăng trầm trên đời đều phát xuất từ lòng tham lam, sân hận và si mê. Ngay cả người tu hành nếu chưa chuyển hoá được tham sân si thì cũng không ngoại lệ. Vị Tỷ kheo kia cũng vì tham nên phạm tội, bị đuổi ra khỏi Tăng đoàn (tẩn xuất), cơ nghiệp tu hành mất trắng. Thay vì thành tâm sám hối, bồi đức chuộc tội, Tỷ kheo ấy lại si mê liên kết với quỷ ma, tạo hư danh hầu kiếm lợi, mê hoặc không ít tín đồ vốn dĩ cũng sính hư danh.
Kể cũng lạ, người ta hay đánh đồng sự khác thường với phi thường. Hễ nghe ai đó có chút khác thường như biết trước một vài chuyện, ngồi nhiều hơn nằm, nhịn nhiều hơn ăn hoặc đột nhiên xênh xang áo mão nói toàn chuyện… trên trời thì cho rằng đã đắc đạo, phi thường rồi nhắm mắt tung hô, xun xoe cầu cạnh, tận tuỵ cúc cung. Mấy ai bình tâm để thấy rằng đằng sau những sự khác thường phù phiếm đó có bàn tay lông lá, đen đúa của quỷ dữ. Trong khi sự siêu việt, phi thường của nhà đạo vốn dĩ là sự bình thường (bình thường tâm thị đạo) thì chẳng mấy ai để ý, thậm chí lại xem thường. Có phải vì thế mà người ta thường tìm mọi cách gồng mình cho hoành tráng, bề thế chăng?
Ma quỷ vốn ít có từ lâu, nên nhúng tay vào chuyện gì cũng có dụng ý rõ ràng, không bao giờ giúp suông. Phò cho vị ác Tỷ kheo, bị đuổi ra khỏi Tăng đoàn có uy tín trở lại, thần thông quảng đại, ngất ngưởng trên hư không nhưng kèm theo điều kiện là chia đôi quyền lợi. Vị Tỷ kheo chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân mà quên đi sự tồn vong của đạo pháp, quá đam mê danh lợi nên mụ mị không cảnh giác rằng quỷ dữ luôn ác tâm và ích kỷ, sẵn sàng đội lên đầu để thủ lợi nhưng cũng nhanh nhẹn “bỏ của chạy lấy người” khi gặp nguy biến. Vì thế mà vị ác Tỷ kheo kia bị rơi từ hư không xuống đất chết thảm, thật bi thương.
Sống và tu tập là từng bước đi lên, thăng hoa, kiện toàn tự thân để đạt đến hoàn thiện. Song, phải đi lên từ đôi chân của chính mình. Không dựa dẫm, nương tựa vào bất cứ ai, lại càng nói không với các loài ma mị, ác quỷ. Khi chưa đủ tài đức của hàng Thánh tăng giáo hoá ác quỷ trở thành hộ pháp thì nên chăng “quỷ thần kính nhi viễn chi”.