LỜI ĐẦU SÁCH
Đạo Phật lấy giác ngộ làm cội gốc, Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhàrtha) tọa thiền dưới cội Bồ Đế được giác ngộ gọi là thành đạo hay thành Phật. Thành Phật có nghĩa là hoàn toàn giác ngộ, nói gọn là toàn giác. Những người tu hành được giác ngộ từng phần gọi là Bồ Tát (Bodhisattva) hay phần giác. Bồ tát định nghĩa là hữu tình giác và giác hữu tình, tức là mình giác ngộ và chỉ dạy cho người cùng được giác ngộ. Từ Phật đến Bồ tát đều căn cứ trên giác ngộ mà thành quả vị sai khác. Do đó, nói Đạo Phật là nói đến giác ngộ,không giác ngộ là không phải Đạo Phật.
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quý kính. Hiện thời đức Phật có cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakirti ), mặc dù là cư sĩ mà giác ngộ cũng được chư vị Bồ tát và A La Hán quý trọng . Hay tin ông bệnh, Phật sai các vị Bồ Tát và La Hán đến thăm, nhân đối đáp đạo lý các Ngài bị ông khuất phục. Do đó, bộ kinh Duy Ma Cật được ra đời. Ở Trung Hoa đời Đường có ông cư sĩ Bàng Long Uẩn ngộ đạo nơi hai Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên và Mã Tổ Đạo Nhất , các Thiền khách xuất gia mỗi khi ứng cơđối đáp đều nể trọng ông. Nước Việt Nam đời Trần có Tuệ Trung Thượng Sĩ là cư sĩ tại gia do ngộ đạo, được cả cư sĩ cùng Tăng sĩ tìm đến tham học. Người học đạo chỉ quý trọng vấn đề giác ngộ, chớ không quan tâm bởi những vấn đề khác. Đây là chứng minh cụ thể Phật giáo Bắc tông cũng như Thiền tông đặt giác ngộ lên trên tất cả.
Quyển “TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC” là một tác phẩm trác tuyệt, triết lý uyên thâm, văn chương thanh thoát. Thế mà, rất ít người Việt Nam chịu đọc, vì lẽ rất khó hiểu. Muốn cho đa số người Việt Nam hiểu được những tác phẩm hay của Tổ tiên mình, hàng Phật tử Việt Nam biết rõ đường lối tu hành của các bậc tiền bối, chúng tôi mạo muội giảng giải ra. Biết rằng làm như thế là trái tinh thần “đa nghi đa ngộ” của Thiền tông, song vì thương những người không biết của báu của cha mình, chúng tôi cam nhận sự chê trách của bậc tác gia mắt sáng, cốt cho học giả đọc hiểu và ứng dụng được phần nào là thỏa nguyện của chúng tôi. Hơn nữa vì làm sống dậy Thiền học Việt Nam nên chúng tôi không ngại đức mỏng tài hèn cố gắng giảng giải.
Quyển sách này do Ngài Điều Ngự (Trần Nhân Tông) ghi lời dạy của Thượng Sĩ, Thiền sư Pháp Loa lo khắc bản in. Trong phần chữ Hán có chia bốn phần : Đối cơ, Tụng cổ, Thi tụng, Tiểu sử. Chúng tôi dịch giảng đôi phần Tiểu sử lại trước để cho người đọc dễ lãnh hội hơn.
Trước đây, ông Trúc Thiền đã phiên dịch quyển sách này từ chữ Hán ra chữ Việt và xuất bản năm 1968. Sau này trong THƠ VĂN LÝ TRẦN Tập II do Nhà Khoa Học Xã Hội xuất bản cũng dịch ra. Hai bản dịch trên khá hay, song thình thoảng có đôi chỗ không thích hợp lý Thiền. Chúng tôi nương theo hai bản dịch này, dịch lại và giảng rõ hơn, cốt giúp độc giả dễ cảm nhận và dễ lãnh hội. Chúng tôi chân thành tri ân những nhà dịch trước, đã đóng góp lớn lao cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam, vàcho công tác gầy dựng lại “TỦ SÁCH PHẬT GIÁO VIỆT NAM” của chúng tôi.Chắc rằng việc giảng giải của chúng tôi có rất nhiều sai sót, mong những hàng thức giả cao minh lượng thứ cho và hoan hỷ chỉ những điểm sai lầm, để lần sau tái bản được chu toàn hơn.
Kính
THÍCH THANH TỪ
Mùa An cư năm 1996