ĐÁP:
Bạn Kim Long và Diệu Thuận thân mến!
Trong các đại giới đàn (cấp tỉnh, thành) hiện nay, các giới tử thọ nhận giới Bồ tát theo tinh thần Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh. Giới pháp này được truyền trao cho các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và thiện nam tín nữ cư sĩ phát tâm thọ trì.
Riêng vấn đề giới Bồ tát gồm 6 giới trọng và 28 giới khinh là quan điểm của Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh (Đại Chính, tập 24), gồm:
Sáu giới trọng (phạm tội nặng) là:
3. Không được tà dâm.
4. Không được nói dối.
5. Không được nói lỗi của người tại gia và xuất gia.
6. Không được bán rượu.
Hai mươi tám giới khinh (phạm tội nhẹ-sơ ý) là:
1. Không cúng dường cha mẹ, sư trưởng.
2. Say đắm rượu chè.
3. Gặp người bệnh khổ có ý gớm ghê, không chăm sóc.
4. Thấy người đến xin, không tùy sức mình mà bố thí ít nhiều, để cho người đến xin ra về tay không.
5. Gặp các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni hoặc các vị Ưu-bà-tắc thọ giới trước, không đứng dậy tiếp đón, lễ lạy.
6. Thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phạm giới, bèn sinh tâm kiêu mạn, cho rằng mình hơn họ.
7. Mỗi tháng không thọ sáu ngày Bát quan trai giới, không cúng dường Tam bảo.
8. Trong vòng 40 dặm có chỗ giảng kinh thuyết pháp mà không đến nghe.
9. Thọ dụng đồ dùng của chư Tăng, như ngọa cụ, giường, ghế, v.v…
10. Nghi nước có trùng mà vẫn cố ý uống.
11. Không có bạn mà vẫn đi một mình vào trong chỗ nguy hiểm.
12. Một mình ngủ lại tại chùa Ni nếu là Ưu-bà-tắc (hoặc chùa Tăng nếu là Ưu-bà-di).
13. Vì tiền của mà đánh đập chửi rủa tôi tớ, hoặc người ngoài.
14. Đem thức ăn thừa bố thí cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di khác.
15. Nuôi những loài ăn thịt như mèo, chồn…
16. Nuôi dưỡng voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà hoặc các loại súc vật khác mà không chịu tịnh thí cho người chưa thọ giới.
17. Không chứa sẵn y, bình bát, tích trượng để cúng dường chúng Tăng.
18. Làm nghề canh tác sinh sống, không tìm chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt.
19. Làm nghề mua bán: lúc bán hàng, một khi đã đồng ý giá cả, không được lật lọng, đem bán cho người trả giá đắt hơn; lúc mua hàng, nếu thấy người bán cân lường gian lận, phải nói lỗi họ, để họ sửa đổi.
20. Hành dục không đúng chỗ, không đúng thời.
21. Làm nghề thương mại, công nghiệp v.v…, không chịu nộp thuế, hoặc khai thuế gian lận.
22. Vi phạm luật pháp nhà nước.
23. Có lúa mới, hoa trái, dưa rau các thứ đầu mùa, không hiến cúng Tam bảo mà thọ dụng trước.
24. Tăng già không cho phép mà vẫn thuyết pháp, tán thán quan điểm riêng của mình. 25. Ra đường dành đi trước Tỳ-kheo, Sa-di.
26. Trong lúc phân phối thức ăn cho chư Tăng, sinh tâm thiên vị, lựa những món ngon, nhiều hơn phần người khác, để cúng dường thầy mình.
27. Nuôi tằm lấy tơ.
28. Đi đường gặp người bệnh, không tìm phương tiện chăm sóc, hoặc nhờ người khác chăm sóc. (Trích lược theo Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh, HT.Thích Tịnh Nghiêm dịch).
Đối chiếu hai bộ giới bản Phạm Võng và Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh, chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt. Quan trọng nhất, Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh (hay Tại Gia Bồ Tát Giới Kinh) là giới Bồ tát của riêng hàng Phật tử tại gia, còn Phạm Võng là giới Bồ tát chung cho cả hàng xuất gia lẫn tại gia.
Cho nên, hàng cư sĩ thọ giới Bồ tát Phạm Võng thì phải giữ giới trọng thứ 3 “Không dâm dục”, trong khi hàng cư sĩ thọ giới Bồ tát theo Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh thì chỉ giữ giới trọng thứ 3 “Không tà dâm” (vẫn có liên hệ sinh lý với bạn đời nhưng phải đúng chỗ, đúng lúc-Giới khinh thứ 20).
Mặt khác, trong 34 giới của Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh thì không thấy quy định rõ ràng về trường trai nhưng nếu thọ giới theo Bồ tát Phạm Võng phải ăn chay trường, giữ giới khinh thứ 3 “Không được ăn các thứ thịt”.
Tóm lại, hàng cư sĩ phát tâm Bồ-đề thọ nhận giới Bồ tát Phạm Võng phải trường trai, tuyệt dục như Tăng sĩ nên không phải ai cũng thọ nhận và hành trì được. Do đó, thọ trì giới Bồ tát theo tinh thần Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh là một giải pháp khả thi và phổ cập cho hàng cư sĩ. Các bạn nên tìm những giới đàn truyền giới Bồ tát cho riêng hàng cư sĩ tại gia để thọ nhận giới pháp.
Chúc các bạn tinh tấn!
Nguồn: giacngo.vn