Ban đầu Sư thị hiện ở Ký Châu, diện mạo rất khô cằn, lạnh lùng, thường cưỡi cây trên sông Bôi Độ, thần hóa khôn lường. Sư không tu tế hạnh, có lúc đập băng mà tắm, lúc lại mang guốc lên núi, hoặc đi chân không vào chợ, vác một cái bị mà thôi, chẳng có gì khác.
Một hôm Sư đến Quảng Lăng, gặp nhà họ Lý trong làng đang cúng trai tăng, Sư đặt bị giữa sân rồi vào thẳng trai đường mà ngồi, mọi người đều nhìn mà Sư vẫn tự nhiên.
Khi ấy, có mấy người thấy chiếc bị để chắn giữa đường, bèn dời qua một bên, nào ngờ dùng hết sứcmà không nhúc nhích. Ăn xong, Sư vác bị lên, cười nói:
Có đứa bé họ Lý lén nhìn thấy trong bị có bốn đứa bé cao mấy tấc, mi mắt như tranh vẽ. Họ Lý thấy lạ, bèn thỉnh Sư lại cúng dường rất lâu. Một hôm, Sư đòi áo cà sa, họ Lý chưa lo kịp, Sư nói:
– Tôi ra ngoài kia một chút!
Đợi đến chiều cũng chưa thấy Sư trở lại, lại nghe trong không có mùi hương lạ, mọi người theo tìm thì gặp Ngài ở dưới chân Bắc Sơn, trải cà sa rách trên đất, an nhiên thị tịch, trên đầu và dưới chân có hoa sen mọc, cả người tỏa hương thơm, qua đêm bỗng héo. Người ta chôn Ngài đã mấy hôm, sau lại có người từ phương Bắc đến nói rằng thấy Ngài vác bị đi về hướng Bành Thành. Họ Lý mở quan tài, chỉ thấy có đôi giày.
Ngài đến Bành Thành, có ông Hoàng Hân tin sâu Phật Pháp, thấy Ngài bèn chào hỏi rồi thỉnh về nhà. Nhà ông lại quá nghèo chỉ ăn gạo tẻ mà thôi, nhưng Ngài ăn vào lại ngọt như mạch nha. Sau Ngài đi về phương Đông đến Ngô Quận, thấy người chài đang lưới cá, Ngài theo xin, người chài nổi giận không cho. Ngài lượm hai cục đá nhỏ ném xuống nước, phút chốc có hai con trâu húc vào lưới làm rách nát rồi trâu biến mất.
Chu Linh Kỳ, dân ở Ngô Quận, từ Cao Ly trở về, bị gió thổi đến một hòn đảo, thấy một ngôi bảo tự. Tăng trong chùa đang dọn cơm, ông liền đến vái chào, xin giúp trở về làng. Vị tăng ấy hỏi:
– Ông biết đạo nhân Bôi Độ chăng?
– Biết!
Vị tăng chỉ một cái đãy treo trên vách, có tích trượng và bình bát, nói:
– Đây là của Bôi Độ. Nay tôi gởi ông đưa bình bát này cho ông ta.
– Ta chẳng thấy bình bát này cách đây đã bốn ngàn năm.
Đời Tống, niên hiệu Nguyên Gia thứ ba, tháng 9 Sư thị tịch. Sau khi diệt độ, người ta vẫn gặp Ngài luôn. Ngài có làm bài ca “Một Bình Bát” như sau:
Sợ kinh khiếp!
Đều là liên miên tạo xoa sát (mạt thát).
Như đói ăn muối càng thêm khát,
Uổng cả một đời đầu cạo miết
Cứu cánh chẳng thể biết gốc ngọn
Ném tử thi đi, chỗ nào thoát?
Khuyên anh nổ lực cầu giải thoát
Việc nhàn rốt cuộc phải nắm bắt
Lửa rớt trên thân cần phải phủi
Chớ đợi gần chết kêu Bồ tát.
Trượng phu nói năng hải khoáng đạt
Chớ học phàm phu ưa vuốt ve
Theo thời, kết quả học bỏ hết
Cũng học nhu hòa, ăn gạo dở
Cũng cạo đầu, cũng đắp y
Nói thẳng với anh, anh chưa đạt
Lại làm trường ca, ca một bát.
Một bát ca, một trong nhiều,
nhiều trong một.
Chớ cười người quê ca một bát
Từng đem một bát độ ta bà.
Trời xanh lồng lộng trăng vừa lên
Lúc này ảnh – không gồm vạn tượng
Bao chốn phù sinh tự thị phi
Một nguồn thanh tịnh không lai vãng.
Trăm lông máu chảy ai dạy thế.
Chẳng bằng ngồi lặng đất Chân như
Trên đảnh mặc cho chim làm ổ.
Mấy đời con Kim Luân Thánh Vương
Dưới cội Bồ đề độ chúng sanh
Độ hết chúng sanh không sanh tử.
Chẳng sanh chẳng tử, chân Trượng phu
Không hình không tướng, đại Tỳ Lô
Trần lao diệt hết, Chân như đấy.
Một viên tròn sáng, châu vô giá.
Mắt không thấy, tai chẳng nghe.
Chẳng thấy, chẳng nghe, thật thấy nghe.
Từ xưa một câu, không ngôn thuyết
Hôm nay ngàn lời gượng phân tích.
Hãy lắng nghe!
Người người đều có tánh Chân như
Giống như hoàng kim ở trong quặng
Luyện đi luyện lại, thể vàng sạch.
Nếu trừ chân vọng lại không người
Chân tâm chớ dối sanh phiền não
Cơm áo tùy thời nuôi sắc thân.
Tốt cũng mặc, xấu cũng mặc
Tất cả vô tâm chớ dính mắc
Cũng không tốt, cũng không xấu
Hai mé thản nhiên, đạo bình đẳng.
Thô cũng ăn, tế cũng ăn
Chớ học phàm phu nhìn trên tướng
Hương tích cõi trên không cội rễ.
Ngồi cũng đi, đi cũng ngồi
Dưới cây sanh tử, quả Bồ đề
Cũng không ngồi, cũng không đi
Không sanh đâu cần kiếm vô sanh!
Sanh cũng được, tử cũng được
Cũng không sanh, cũng không tử
Ba đời Như Lai đều như thế.
Lìa thì dính, dính thì lìa
Trong cửa huyễn hóa không nghĩa thật
Không thể lìa, không thể dính,
Chỗ nào lại cầu không bệnh thuốc?
Nói thời im, im thời nói
Nói nín ngang dọc không chỗ nơi.
Cũng không nói, cũng không nín
Chớ gọi Đông Tây là Nam Bắc.
Sân tức hỉ, hỉ tức sân,
Ta tự hàng ma, chuyển Pháp Luân
Nước chẳng lìa sóng, sóng tức nước.
Tiếc thời bỏ, bỏ thời tiếc
Chẳng lìa trong ngoài và ở giữa
Cũng chẳng tiếc, cũng chẳng bỏ
Tịch tịch liêu liêu không chỗ nắm.
Cũng không khổ, cũng không vui
Dơ tức sạch, sạch tức dơ
Hai bên rốt cuộc không sau trước
Cũng chẳng dơ, cũng chẳng sạch
Đại thiên đồng một tánh chân như.
Cuối cùng hai việc cần nêu hết
Cũng không thuốc, cũng không bệnh
Chính là chân như tánh giác linh.
Trong gương tìm bóng, sóng trên nước
Cũng không ma, cũng không Phật
Phàm tức thánh, thánh tức phàm
Keo trong màu xanh, trong nước lam
Cũng không phàm, cũng không thánh
Vạn hạnh tổng trì, không một hạnh.
Giả trong chân, chân trong giả.
Cũng không chân, cũng không giả
Nếu không lúc gọi đâu vâng dạ!
Xưa nay không họ cũng không tên
Chỉ vậy đằng đằng chân tin bước
Có lúc quán chợ cùng hàng thịt.
Một đóa sen hồng trên lửa sanh
Cũng từng gậy trúc dạo kinh lạc
Thân dường mây nổi không vướng mắc
Huyễn hóa từ lâu tợ ở nhờ
Nhà người chỗ chạm lại thanh hư
Nếu tìm giới!
Ba độc lở loét bao giờ khỏi?
Nếu kiếm thiền!
Thật đáng thương, chẳng phải điên
Thế gian, xuất thế, thiên trung thiên
Người đời chẳng hiểu được ý này
Đánh nhằm bên Nam, động bên Bắc.
Nếu kiếm pháp!
Trong núi Kê Túc hỏi Ca Diếp
Đại sĩ giữ y ở trong này
Xưa nay chẳng cần cầu giữ vỏ.
Nếu tìm kinh!
Pháp tánh Chân Nguyên không thể nghe.
Nếu kiếm luật!
Cùng tử chẳng nên dạy chạy ra.
Nếu tìm tu!
Tám vạn phù đồ cầu chỗ nào?
Chỉ biết lá vàng dừng tiếng khóc.
Bất giác mây đen che mặt trời
Chớ lạ lời cuồng không thứ lớp
Sàng lưới dần vào tế trong thô
Chỉ cái tế trong thô cũng không
Tức là viên minh chân thật đế.
Nếu hướng trong trần hiểu chân thật
Liền là đường đường người xuất thế.
Người xuất thế, chớ tạo tác
Độc hành, độc bộ, không thênh thang
Không sanh, không tử, không Niết Bàn
Xưa nay sanh tử không quan hệ.
Không thị phi, không động tĩnh
Chớ dối đem thân vào giếng không
Cũng không gương sáng treo đài cao
Kiến giải sơn tăng chỉ như thế
Chẳng tin tùy họ tạo kiếp tro.
Nguồn:thuvienhoasen.org