LỜI TRẦN TÌNH
Trong các kinh điển Đại thừa được lưu truyền rộng rãi, xét về mức độ được giảng giải, trì tụng, có lẽ kinh Di-đà chỉ kém Tâm Kinh Bát Nhã. Từ trước đến nay, trong các tòng lâm, Kinh Di-đà vẫn thường được tụng vào mỗi thời công phu tối và hầu như bất cứ vị Tăng Ni thuộc truyền thống Băc tông nào cũng đều thuộc lòng kinh Di-đà. Bổn sư của mạt nhân kể rằng: Trong thời gian làm điệu, ngoài bản Sa-di Tỳ-ni, Hòa thượng viện chủ bắt các điệu phải học thuộc lòng Di-đà đến nỗi có thể đọc từ chữ cuối ngược lên đầu kinh mà không vấp. Khi học chữ Hán, văn bản đầu tiên Hòa thượng dùng để dạy các điệu cũng là kinh Di-đà. Khi Hòa thượng còn tại thế, dù tụng kinh gì đi nữa, mỗi ngày đại chúng trong chùa đều phải tụng Di-đà ít nhất 1 lần.
Tuy được lưu truyền, trì tụng rộng rãi trong khắp các Tòng lâm, đối với Phật tử nói chung, kinh Di-đà vẫn là một kinh bị hiểu nhầm nhiều nhất. Trong một lần trò chuyện với một Phật tử tu tại gia lâu năm, cũng tu hạnh Tịnh độ, mạt nhân đã sửng sờ khi nghe vị ấy nói: “Cháu tụng kinh gì hàng ngày? Kinh Di-đà hả?”. “Mỗi ngày cháu tụng một quyển Pháp Hoa hay kinh Niết Bàn kia, chứ những kinh nhỏ sơ cơ như kinh Di-đà, kinh Địa tạng chỉ khi nào đi đám ma cháu mới thèm tụng đến mà thôi!”. Tưởng chỉ mình vị ấy nghĩ như thế, nào ngờ phần lớn những đạo hữu thường gặp hàng tuần tại ngôi chùa gần nhà cũng cho rằng kinh Di-đà chỉ dành để đọc cho người chết nghe! Thật là đáng buồn, bản kinh quý báu, tâm huyết của Đức Thích Tôn, diệu dược cho đời mạt pháp đã bị hiều nhầm, rẻ rúng đến thế ấy!
Sau này khi đi nghe giảng, chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy không ít vị xuất gia cũng tỏ vẻ coi thường kinh Di-đà. Theo họ, kinh Di-đà chỉ dành cho hạng ông già bà cả, ít chữ trì tụng. Đối với những vị giảng sư thao thao thuyết giảng tự hào làu thông kinh điển Tam tạng ấy, kinh Di-đà chì là môt thứ ngụ ngôn, một thứ phương tiện quyền biến, hay nói khó nghe hơn là một thứ bánh vẽ để dẫn dụ những hạng sơ cơ nhập đạo. Thậm chí có vị còn phê bình kinh Di-đà là kinh nặng tính van vái, cầu xin, quy lụy không thích hợp với Phật pháp hiện đại! Một thầy còn tuyên bố thẳng thừng: ‘Còn trẻ mà tu Tịnh độ thì uổng quá! Tôi chỉ khi nào bệnh gần chết, không còn làm được gì nữa, mới chịu nằm niệm Phật! Người tu Tịnh độ lúc nào cũng nghĩ đến cái chết, đôi vai trĩu nặng nỗi buồn. Thay vì cứ lẩm nhẩm niệm Phật, sao không quán tưởng cảnh giới mình đang sống, đây chính là Cực Lạc”.
Hậu quả tất nhiên có không ít Phật tử mỗi Chủ Nhật đến chùa tụng một phẩm Pháp Hoa hay Kim Cang, niệm Phật dăm câu lấy có; thế là an tâm mình đã “mua sẵn vé” về cõi Cực Lạc là đã tu nhiều lắm rồi! Chẳng ai bận tâm tìm hiểu giáo nghĩa kinh Di-đà chi cả. Người tự nhận mình là Hạ căn chỉ mong khi chết được vãng sinh, nhưng mấy ai bận tâm đến Tín, Hạnh, Nguyện! Những người tự coi mình là bậc thượng căn thì nếu có ai khuyên niệm Phật sẽ cười mũi, bảo chỉ có tham thiền hay quán tưởng, trì chú mới là pháp xứng đáng để họ tu tập mà thôi. Tiếc thay, tuy nói thế, họ cũng không dụng công tọa thiền, cũng chẳng dụng công quán tưởng trì chú, chỉ luôn nhai nhải: “Duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di-đà! Cực Lạc là đây, lựa tìm đâu xa!”, rồi vẫn an nhiên mặc cho quang âm thoáng qua vùn vụt!
Pháp môn Tịnh độ nói chung hay là kinh Di-đà bị hiểu lầm như thế có phải vì kinh Di-đà không được giảng giải cặn kẽ hay không? Hoàn toàn không! Từ xưa đến nay, ngoài hai kinh Kim Cang và Tâm kinh, có lẽ kinh Di-đà đã được giảng và chú giải nhiều nhất. Tính cho đến hiện tại, đa số các vị giảng sư dù ít hay nhiều cũng đã từng giảng qua bản kinh này. Điều đáng ngạc nhiên là ít có đệ tử nào tìm đọc các bản chú giải kinh A-di-dà, đành phải hiểu qua cách diễn giảng của các vị giảng sư không mặn mòi với pháp môn Tịnh độ. Do quá nhiệt tình đề xướng pháp môn của tông phái mình, các vị giảng sư ấy đã nhìn kinh Di-đà qua lăng kính đầy thiên kiến, khiền thính chúng đã lầm càng lầm thêm. Điều đáng buồn là hai bản chú giải trác tuyệt là Di-đà Yếu Giải và Di-đà Sớ Sao đã được phiên dịch sang Việt ngữ từ lâu, nhưng có mấy người chịu đọc kỹ càng!
Năm 1984, trong một lần thọ Bát Quan Trai Giới, trong giờ nghĩ trưa, mạt nhân nghe một cụ lớn tuổi than vãn là đã tốn nhiều công đọc bản Sớ sao, nhưng vẫn chưa lãnh hội nổi. Theo cụ, ý nghĩa của Sớ sao quá uyên áo, quá phức tạp, từ ngữ trong bản dịch lại quá cổ, nên rất khó cảm nhận được ý chỉ lời dạy của Tổ. Khi đọc qua Yếu Giải, tuy lời văn trong sáng, giản yếu hơn nhưng vẫn chưa lãnh hội những phần Tổ Luận và Chân Như, Thật tướng… Cụ cho rằng để lãnh hội được phần nào hai bản chú giải trên, người đọc phải hiểu biết khá nhiều về Phật pháp cũng như phải hiểu được một số thuật ngữ chuyên môn của Hoa Nghiêm, Thiên Thai, lẫn Duy Thức. Do thế, những người mới học Phật sẽ dễ chán nản, khó thể kiên nhẫn theo dõi toàn bộ hai bộ chú giải trên.
Nghe lời than thở ấy, mạt nhân chợt nghĩ: sao mình không tổng hợp những lời giảng của các vị giảng sư cận đại Trung Hoa để tạo thành một cuốn chú giải kinh Di-đà, để dễ hiểu hơn, ngõ hầu các hành nhân cơ sở, chưa biết nhiều về Phật pháp có thể đọc hiểu được? Khi đã có khái niệm căn bản về những thuật ngữ thường dùng trong kinh nắm được ý chính của kinh Di-đà, họ sẽ lãnh hội được các bản Yếu Giải và Sớ Sao sẽ dàng hơn.
Ngẫu hợp sao, giữa năm 2002, đạo hữu Minh Lập đã gởi tặng một loạt những bản chú giải kinh Di-đà của vị giảng sư cận đại như:
1.Phật thuyết A-di-đà Kinh giảng lụccủa Pháp sư Đạo Nguyên
2.Phật thuyết A-di-đà Kinh Bạch Thoại Giảng Giảicủa Nam Đình hòa thượng.
3.Phật thuyết A-di-đà Kinh Yếu Thíchcủa Pháp sư Bân Tông
4.Phật thuyết A-di-đà Kinh yếu Giải Thân Văn Kýdo Pháp sư Bảo Tịnh giảng.
Kế đó,đạo hữu Không Châu gởi tặng một loạt sách Tịnh Độ. Trong ấy, có cuốn A-di-đà Kinh Thông Tán Sớ của Pháp sư Khuy Cơ đời Đường. Đã thế, đạo hữu Huệ Trang lại còn cho mượn cuốn Phật thuyết A-di-đà Kinh Giảng Nghĩa của Pháp sư Văn Châu. Trong một lần đi niệm Phật tại chùa Tịnh Độ, mạt nhân thỉnh được thêm cuốn Trùng Đính Nhị Khóa Hiệp Giải của Pháp sư Hưng Từ soạn (trong cuốn này, phần Di-đà Kinh Huyền Nghĩa cũng chứa đựng nhiều kiến giải lý thú) và cuốn Tịnh Độ Tư Lương của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ (trong cuốn này, cụ Hoàng chỉ giảng sơ lược về kinh Di-đà qua bài viết A-di-đà Kinh Tông Yếu, Tín Nguyện Trì Danh).
Xét trong các bản chú giải trên, bản chú giải của Pháp sư Bân Tông là chi tiết nhất, nhiều ý tưởng độc đáo nhất, phân chia chương mục rõ ràng nhất, lại có cả phần hiển lý giống như Sớ Sao, nên mạt nhân chọn bản này làm gốc. Bản chú giải của Pháp sư Khuy Cơ quá nặng nề Duy thức học nên không thích hợp lắm coh người sơ cơ. Vì thế, mạt nhân chỉ chọn lấy những điểm thật đặc sắc và dễ hiểu.
Bản của Pháp sư Văn Châu tuy không có nhiều ý tưởng độc đáo, nhưng cách phân chia thành mười môn lớn để chú giải rất giống với cách thích kinh của tổ Liên Trì nên mạt nhân tuân thủ cách phán định và phân chia chương mục của Văn pháp sư.
Khi chọn dịch, những đoạn chư sư nhắc lại ý kiến của chư vị Liên Trì và Ngẩu Ích, mạt nhân đều lược qua không dịch, bởi lẽ những ý đó đã được phô diễn trọn vẹn trong hai bản Yếu Giải và Sớ Sao. Để hiểu những tư tưởng đó, phải đọc trong ngữ cảnh của Sớ Sao và Yếu Giải mới thấy chúng sâu sắc, tinh yếu tuyệt diệu đến dường nào!
Dù cố gắng hết sức, nhưng với trí huệ nông cạn, trình độ Phật học thiển cận, chắc chắn trong quá trình chọn lọc, chuyển ngữ, không thể nào tránh khỏi những lỗi lầm lẽ ra không nên có. Chỉ mong dịch phẩm thô lậu này sẽ giúp cho những hành nhân sơ cơ có được đôi chút kiến thức sơ cấp để làm hành trang tham cứu ban đầu hòng lãnh hội được những u huyền, tinh úy trong Yếu Giải và Sớ Sao.
Nếu như việc làm liều lĩnh này đem lại chút lợi lạc nào thì xin hồi hướng đến Pháp giới chúng sinh, những ai thấy nghe kinh Di-đà đều khởi lòng tin kính sâu xa, đều chăm tu Tịnh Nghiệp. Nguyện tất cả những hành nhân đồng hạnh Tịnh Nghiệp sẽ cùng được hội ngộ nơi quê hương Cực Lạc.
(Phật lịch 2547, tiết Lập Thu , Bửu Quang
Tự đệ tử Như Hòa kính bạch!)